Tài liệu ôn thi cấp Chứng chỉ Nghiệp vụ khai HQ 2016 Môn thi BÀI TẬP TÌNH HUỐNG VỀ PHÁP LUẬT HẢI QUAN Read less

Theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 448 BLDS năm 2015:

“1. Bên bán phải sửa chữa vật và bảo đảm vật có đủ các tiêu chuẩn chất lượng hoặc có đủ các đặc tính đã cam kết.

Như vậy, theo quy định trên, anh Long có trách nhiệm phải sửa chữa chiếc tủ lạnh cho anh A trong thời gian bảo hành. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 448 cũng đã ghi nhận, bên bán chịu chi phí về sửa chữa và vận chuyển vật đến nơi sửa chữa và từ nơi sửa chữa đến nơi cư trú hoặc trụ sở của bên mua; do đó, chi phí vận chuyển 800.000 đồng anh Long phải tự chịu mà không được quyền yêu cầu anh A thanh toán.

Tình huống 62. Anh Trần Văn X đến Đại lý ôtô Honda MĐ mua chiếc ôtô Honda Civic 1.8AT với giá 780.000.000 triệu đồng. Công ty Honda Việt Nam chịu trách nhiệm bảo hành cho mỗi chiếc xe về các khiếm khuyết kĩ thuật trong 3 năm hoặc 100.000 km, tùy điều kiện nào đến trước. Khi sử dụng xe được một tuần, trên đường đi qua khu chợ đông người mặc dù X đã đạp chân phanh nhưng xe bị mất phanh không hãm được tốc độ; do đó, xe đã đâm vào chị M (người đi đường) khiến chị gẫy chân và chữa trị hết 25 triệu đồng. Khi X mang xe đến đại lý bảo hành, qua quá trình kiểm tra thì được nhân viên kĩ thuật cho biết, xe không phanh được do hệ thống trợ lực phanh bị lỗi kĩ thuật, mất điện đột ngột; lỗi này dẫn đến tài xế không phanh được xe như mong muốn. Bên đại lý có trách nhiệm bảo hành cho xe ô tô của X. Bên cạnh đó, X yêu cầu đại lý bán hàng phải chịu trách nhiệm bồi thường 25 triệu đồng cho chị M. Tuy nhiên, bên đại lý Honda MĐ không chấp thuận yêu cầu này dẫn đến hai bên xảy ra tranh chấp. Hãy giải quyết tình huống.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 449 BLDS năm 2015: “Ngoài việc yêu cầu thực hiện các biện pháp bảo hành, bên mua có quyền yêu cầu bên bán bồi thường thiệt hại do khuyết tật về kỹ thuật của vật gây ra trong thời hạn bảo hành”.           Như vậy, theo tình huống trên, do xe ô tô bị lỗi kỹ thuật với hệ thống phanh nên mới dẫn đến tình huống xe mất phanh và đâm vào chị M. Có thể khẳng định, thiệt hại xảy ra cho chị M xuất phát từ khuyết tật về kỹ thuật của xe ô tô. Do đó, anh X có quyền yêu cần bên bán phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định trên.

Tình huống 63. Anh Hà, anh Hùng và anh Khánh là ba người chuyên buôn đồ cổ. Ba anh thỏa thuận cùng nhau góp tiền để mua chung chiếc lu bằng gốm cổ với giá 300 triệu đồng. Đây là hiện vật của dòng gốm cổ Biên Hoà, vô cùng quý hiếm. Sau khi mua xong, anh Hà và anh Hùng thỏa thuận kí kết hợp đồng bán đấu giá chiếc lu cổ với Công ty bán đấu giá tài sản X. Do anh Khánh đang đi công tác ở nước ngoài nên anh Hà và anh Hùng tự quyết mọi vấn đề; anh Khánh chỉ được thông báo về việc bán đấu giá chiếc lu sau khi hợp đồng bán đấu giá được giao kết xong. Không đồng ý với quyết định của anh Hà và anh Hùng, anh Khánh yêu cầu hủy hợp đồng bán đấu giá tài sản giữa công ty X và anh Hà, anh Hùng.Hãy giải quyết tình huống.

Theo quy định tại Điều 451 BLDS năm 2015: “Tài sản có thể được đem bán đấu giá theo ý chí của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật. Tài sản thuộc sở hữu chung đem bán đấu giá phải có sự đồng ý của tất cả các chủ sở hữu chung, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Theo tình huống, anh Hà, anh Hùng và anh Khánh cùng góp tiền mua chung chiếc lu; do đó, chiếc lu cổ là sở hữu chung của ba người. Theo quy định trên, khi mang chiếc lu bán đấu giá thì phải được sự đồng ý của tất cả các chủ sở hữu chung. Nhưng khi giao kết hợp đồng bán đấu giá vì anh Khánh đi công tác ở nước ngoài nên việc bán đấu giá chiếc lu chỉ được quyết định bởi anh Hà và anh Hùng mà anh Khánh không được biết và không được thể hiện ý chí của mình. Do đó, việc giao kết hợp đồng bán đấu giá của anh Hà và anh Hùng với công ty bán đấu giá X không hợp pháp. Anh Khánh có quyền không công nhận và yêu cầu hủy bỏ hợp đồng bán đấu giá chiếc lu.

Tình huống 64. Do cần vốn làm ăn nên vợ chồng anh Lê Xuân Biên đã mang bộ trường kỷbằng gỗ cây gõ mật bán cho anh Lộc với giá 200 triệu đồng, Vợ chồng anh Biên cho biết, bộ ghế này được ông bà anh mua từ trước năm 1950 và đã qua nhiều thế hệ sử dụng; do đó, vợ chồng anh thỏa thuận với anh Lộc khi nào có tiền thì cho vợ chồng anh chuộc lại và được anh Lộc đồng ý. 11 tháng sau, vợ chồng anh Biên mang 200 triệu đồng chuộc lại bộ trường kỷ nhưng anh Lộc không đồng tình vì anh đã kí hợp đồng bán bộ trường kỷ này cho người khác với giá 300 triệu đồng và đang chờ 5 ngày nữa sẽ giao. Vợ chồng anh Biên không đồng tình dẫn đến tranh chấp xảy ra.Hãy giải quyết tình huống.

Theo quy định tại Điều 454 BLDS năm 2015: “Thời hạn chuộc lại tài sản do các bên thoả thuận; trường hợp không có thỏa thuận thì thời hạn chuộc lại không quá 01 năm đối với động sản và 05 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm giao tài sản, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. Trong thời hạn này, bên bán có quyền chuộc lại bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên mua trong một thời gian hợp lý. Giá chuộc lại là giá thị trường tại thời điểm và địa điểm chuộc lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.

Theo tình huống trên, sau khi bán bộ trường kỷ được 11 tháng thì vợ chồng anh Biên đã chuộc lại tài sản; do đó, tại thời điểm chuộc lại hoàn toàn phù hợp với quy định của luật. Trong thời hạn chuộc lại, bên mua không được xác lập giao dịch chuyển quyền sở hữu tài sản cho chủ thể khác. Như vậy, có thể khẳng định vợ chồng anh Biên hoàn toàn có quyền chuộc lại bộ trường kỷ; anh Lộc không được quyền bán cho người khác. Vì các bên không có thỏa thuận từ trước nên giá chuộc lại là giá thị trường tại thời điểm và địa điểm chuộc lại.

Tình huống 65. Do đang có nhu cầu mang laptop đi công tác để giải quyết công việc, chị Nhung đã mượn chiếc laptop HP của bạn mình là chị Hằng trong thời gian 5 ngày. Sau thời gian công tác về, chị Nhung báo với chị Hằng là chiếc laptop bị trộm lấy mất khi chị để ở trong phòng tại khách sạn chị ở trong thời gian công tác.Vì chiếc laptop đã sử dụng lâu năm và xuống cấp nên khách sạn chỉ bồi thường 1 triệu đồng. Vì nghĩ tình bạn bè thân thiết lâu năm và sự việc xảy ra cũng không ai mong muốn nên chị Hằng đành chấp thuận. Tuy nhiên sau đó chị Hằng được chị Lan là người đi công tác cùng chị Nhung cho biết, thực chất chiếc laptop không phải bị mất mà do chị Nhung đổi chiếc laptop lấy chiếc máy tính bảng Sam Sung của chị. Vì chị Lan nghĩ đó là laptop của chị Nhung nên mới đồng ý đổi.Hãy giải quyết tình huống để bảo vệ quyền lợi cho chị Hằng và chị Lan.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 455 BLDS năm 2015: “Trường hợp một bên trao đổi cho bên kia tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình hoặc không được chủ sở hữu ủy quyền thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.

Chiếc laptop mà chị Nhung dùng để trao đổi lấy chiếc máy tính bảng Sam Sung của chị Lan không thuộc sở hữu của chị Nhung. Đồng thời, việc trao đổi này không được chị Hằng – là chủ sở hữu chiếc laptop biết. Do đó, theo quy định trên, chị Lan có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng trao đổi. Khi hợp đồng được hủy bỏ thì các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận, cụ thể: chị Lan được nhận lại chiếc máy tính bảng của mình; còn chiếc laptop được giao trả lại cho chị Hằng – chủ sở hữu đích thực của tài sản.

Tình huống 66. Vợ chồng ông bà Hạnh có hai người con trai là Mạnh và Hải. Khi anh Mạnh chuẩn bị lập gia đình thì ông bà Hạnh có chia cho anh 120 m2 đất để xây nhà. Việc cho đất chỉ được được lập giấy viết tay, có chữ kí của vợ chồng ông bà Hạnh và anh Mạnh. Sau 6 năm kết hôn, vợ chồng anh Mạnh xây nhà trên mảnh đất mà anh Mạnh được chia trước khi lấy vợ. Trong quá trình chung sống, mâu thuẫn nảy sinh giữa vợ chồng ông bà Hạnh với vợ chồng anh Mạnh. Vợ chồng anh Mạnh thường xuyên hỗn láo và cãi nhau với vợ chồng ông bà Hạnh. Tức giận vì sự bất hiếu của người con, ông bà Hạnh đòi anh Mạnh phải trả lại đất cho mình nhưng anh không đồng ý. Xin hay cho biết pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này.

– Hợp đồng xác lập giữa vợ chồng ông bà Hạnh và anh Mạnh là hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Theo quy định tại Điều 459 BLDS năm 2015: “Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật”. Đối chiếu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông bà Hạnh và anh mạnh với điều kiện trên thì hợp đồng này vi phạm về hình thức vì hợp đồng mới chỉ được viết tay mà chưa được công chứng, chứng thực.

– Hợp đồng vi phạm về hình thức thì việc giải quyết áp dụng khoản 2 Điều 129 BLDS năm 2015. Mặc dù hợp đồng tặng cho chưa được công chứng, chứng thực nhưng ông bà Hạnh đã giao đất cho anh Mạnh; đồng thời anh Mạnh đã nhận đất và đã tiến hành xây nhà trên diện tích được giao. Nên các bên trong hợp đồng đã thực hiện xong nghĩa vụ trong hợp đồng tặng cho tài sản. Bởi vậy, ông bà Hạnh không có quyền đòi đất của anh Mạnh. Anh Mạnh có quyền yêu cầu Tòa ra quyết định công nhận hiệu lực của hợp đồng.

Tình huống 67. Vào dịp cuối năm, vợ chồng anh Quyết đầu tư vốn buôn loa đài, dàn hát karaoke để phục vụ cho nhu cầu mua sắm gần tết. Do thiếu vốn nên vợ chồng anh vay 150 triệu đồng của anh Hiệp. Khi vay, vợ chồng anh Quyết cam kết dùng số tiền vay để nhập loa, đài buôn bán và sẽ trả nợ cho anh Hiệp trong vòng 3 tháng kể từ khi vay. Tuy nhiên, sau khi vay xong, vợ chồng anh Quyết được bạn rủ góp vốn nhập rượu ngoại về bán vì giáp tết thì nhu cầu mua rượu tăng cao và bán rượu ngoại thu lãi rất lớn. Vợ chồng anh Quyết đã dùng số tiền vay của anh Hiệp để góp vốn mua rượu ngoại với bạn. Biết được thông tin này, anh Hiệp đã yêu cầu vợ chồng anh Quyết trả tiền cho mình nhưng vợ chồng anh Quyết không đồng ý vì vợ chồng anh mới vay tiền được 1 tháng chưa hết thời hạn trả nợ mà các bên đã thỏa thuận. Hãy giải quyết tình huống.

Theo quy định tại Điều 467 BLDS năm 2015: “Các bên có thể thoả thuận về việc tài sản vay phải được sử dụng đúng mục đích vay. Bên cho vay có quyền kiểm tra việc sử dụng tài sản và có quyền đòi lại tài sản vay trước thời hạn nếu đã nhắc nhở mà bên vay vẫn sử dụng tài sản trái mục đích”.

Như tình huống nêu trên, vợ chồng anh Quyết đã dùng số tiền vay của anh Hiệp để góp vốn mua rượu ngoại với bạn mà không phải để nhập loa, đài buôn bán như đã cam kết với anh Hiệp. Do đó, vợ chồng anh Quyết được xác định là sử dụng tiền vay không đúng với mục đích vay. Theo quy định trên, anh Hiệp có quyền yêu cầu vợ chồng anh Quyết trả 150 triệu đồng trước thời hạn trả nợ mà 2 bên đã thỏa thuận.

Tình huống 68. Do chơi lô đề, cá độ bóng đá nên anh Đồng vay nợ rất nhiều người. Để trả nợ, Anh Đồng tiếp tục vay chị Linh số tiền 300 triệu đồng.Hai bên thỏa thuận, sau 1 năm anh Đồng phải trả cả gốc và lãi cho chị Linh là 390 triệu đồng. Hỏi: Lãi suất do các bên thỏa thuận có hợp pháp hay không?

– Khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015 quy định: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực”.

Vậy trong trường hợp này: chị Linh cho anh Đồng vay 300 triệu đồng, tiền lãi là 90 triệu đồng trong vòng 12 tháng. Vậy lãi suất theo năm là = 90.000.000/300.000.000 x 100% = 30%/năm. Mức lãi suất này đã vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay; do đó, mức lãi suất 30%/năm không được chấp thuận. Theo quy định trên, trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn là 20%/năm thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. Do vậy, mức lãi suất để tính lãi tối đa trong tình huống này là: 20%/năm.

Tình huống 69. Gia đình anh Trung nuôi một đàn trâu 6 con chuyên dùng cho thuê để làm sức kéo. Vào vụ mùa đông xuân anh Trung cho anh Lai thuê khoán cả đàn trâu nhà mình trong cả vụ với mục đích anh Lai dùng trâu để cày ruộng thuê lấy tiền. Anh Lai giao 6 con trâu cho 6 người anh Lai thuê để đi cày bừa thuê cho các gia đình trong xóm, mỗi ngày công anh Lai trả cho họ là 200.000 đồng/người/ngày. Vào cuối mùa vụ khi các ruộng đã được cày gần xong hết thì công việc ít nên anh đã mang 2 con trâu mà anh thuê của anh Trung cho anh Lợi thuê trong thời gian còn lại của vụ mùa đông xuân mà không thông báo cho anh Trung biết. Hỏi: Anh Lai có quyền cho anh Lợi thuê lại trâu của anh Trung không? Tại sao?Giả sử trong thời gian thuê khoán, có con trâu đẻ ra con nghé thì con nghé thuộc sở hữu của ai?Cở sở pháp lý áp dụng để giải quyết.

Anh Lai không có quyền cho anh Lợi thuê lại 2 con trâu của anh Trung. Vì theo quy định tại khoản 3 Điều 508: “Bên thuê khoán không được cho thuê khoán lại, trừ trường hợp bên được cho thuê khoán đồng ý”. Việc anh Lai cho anh Lợi thuê khoán lại là làm trái quy định của pháp luật, vi phạm nghĩa vụ của người thuê khoán.

Trong thời gian thuê khoán, con trâu đẻ ra con nghé thì cả bên cho thuê là anh Trung và bên thuê khoán là anh Lai đều được hưởng một nửa số gia súc con vì theo quy định tại Điều 491 BLDS năm 2015: “Trong thời hạn thuê khoán gia súc, bên thuê khoán được hưởng một nửa số gia súc sinh ra và phải chịu một nửa thiệt hại về gia súc thuê khoán do sự kiện bất khả kháng, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.

Tình huống 70. Ba anh Hoàng, Hưng và Lai giao kết hợp đồng hợp tác để cùng thực hiện dịch vụ vận chuyển hàng hóa tại chợ Đồng Xuân, Hà Nội. Theo sự thỏa thuận của các bên, anh Hoàng góp chiếc xe bán tải mà gia đình anh đang sử dụng, còn anh Hưng và anh Lai mỗi người góp 150 triệu đồng để mua thêm một chiếc xe tải chở hàng loại nhỏ. Ba anh cam kết phải góp tài sản trong vòng thời gian 1 tuần sau khi giao kết hợp đồng hợp tác. Tuy nhiên, đến khi hết thời gian góp tài sản, chỉ anh Hoàng và anh Hưng thực hiện theo đúng cam kết; còn anh Lai thì mới góp được 50 triệu đồng, 100 triệu đồng còn lại anh Lai góp quá thời gian cam kết 3 tuần. Hỏi: Trách nhiệm của anh Lai đối với việc chậm góp tiền của mình?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 506 BLDS năm 2015: “Trường hợp có thỏa thuận về góp tiền mà thành viên hợp tác chậm thực hiện thì phải có trách nhiệm trả lãi đối với phần tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật này và phải bồi thường thiệt hại”.

Dẫn chiếu tới Điều 357 BLDS năm 2015: Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015. Đây là tình huống mà các bên không có thỏa thuận về lãi suất do chậm trả tiền; do đó, mức lãi suất được áp dụng để tính là 10%/năm (khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015).

Từ các căn cứ trên, số tiền lãi mà anh Lai phải trả do chậm góp số tiền 100 triệu trong vòng 3 tháng là: 100 triệu x (10%/năm :12) x 3 tháng = 2.500.000 đồng.

Tình huống71. Ông Nguyễn Thành Nam, ông Trần Hoàng và bà Phan Thanh dự định cùng góp vốn thực hiện việc đấu thầu ao cá tại xã nơi các ông bà đang cư trú. Để tránh rủi ro xảy ra nên các ông bà quyết định sẽ lập một hợp đồng ghi nhận nội dung thỏa thuận của bên. Tuy nhiên, các ông bà loay hoay không biết sẽ ký hợp đồng này với tên gọi gì và có nội dung như thế nào. Xin hãy cho biết pháp luật quy định như thế nào về nội dung hợp đồng?

Do nhu cầu của các ông bà chỉ là cùng đóng góp vốn thực hiện một hoạt động cụ thể, không có nhu cầu thành lập một pháp nhân chung nên theo quy định tại Điều 504 BLDS năm 2015, các ông bà có thể ký kết hợp đồng mang tên Hợp đồng hợp tác.

Theo quy định tại Điều 505 BLDS năm 2015, nội dung Hợp đồng hợp tác giữa các ông bà cần có các nội dung cơ bản sau:

Tình huống 72. Ông Nguyễn Văn Hoàng, ông Trần Long và ông Phan Hải cùng đóng góp 1 tỉ 500 triệu đồng hợp tác thực hiện công việc cung cấp dịch vụ vận chuyển có người lái. Để thực hiện việc hợp tác, mỗi ông đóng góp 500 triệu và thống nhất mua 3 chiếc xe ô tô 4 chỗ và mỗi chiếc mang tên một người tham gia trong hợp đồng hợp tác trên cơ sở hợp đồng ủy quyền. Thời hạn hợp tác trong 3 năm kể từ ngày thực hiện việc hợp tác. Khi thực hiện hợp đồng hợp tác được 12 tháng, ông Trần Long có nhu cầu tiền nên bán một chiếc xe mang tên chủ sở hữu là ông. Sau khi ông Long bán xe, hai thành viên còn lại phản đối và buộc ông Long hủy hợp đồng mua bán. Ông Long cho rằng chiếc xe mang tên mình, hơn nữa bản thân ông cũng đóng góp tiền mua xe nên ông có quyền. Ba ông quyết định đến văn phòng luật sư đề nghị được tư vấn.

Tình huống 73. Công ty TNHH hai thành viên trở lên Hoàng Thanh (gọi tắt là công ty Hoàng Thanh) đặt hàng với Công ty may Chiến Thắng may cho mình 500 bộ đồng phục cho nam và nữ nhân viên. Hai công ty thỏa thuận, vải sẽ do công ty may Chiến Thắng cung cấp trên cơ sở công ty Hoàng Thanh duyệt. Thời gian thực hiện hợp đồng là 2 tháng kể từ ngày hợp đồng ký kết. Công ty Hoàng Thanh có quyền kiểm tra hàng trước khi bàn giao vào ngày thứ 50 của thời hạn thực hiện hợp đồng. Đến ngày kiểm tra hàng, công ty Hoàng Thanh sang công ty mau Chiến Thắng kiểm tra hàng thấy số lượng mới hoàn thành được một nửa. Công ty may Chiến Thắng giải thích rằng họ vừa bán 150 bộ trang phục cho công ty khác do công ty này cũng rất thích các sản phẩm này. Công ty Hoàng Thanh yêu cầu công ty may Chiến Thắng phải bồi thường thiệt hại vì bản thân công ty may này không phải là chủ sở hữu tài sản nên không có quyền định đoạt. Bản thân công ty may Chiến Thắng cho rằng mình là chủ sở hữu nên đương nhiên có quyền bán các sản phẩm này cho công ty khác. Sau khi phát sinh tranh chấp, hai công ty đến yêu cầu tư vấn từ các chuyên gia pháp lý để có cách giải quyết thích đáng.

Theo thỏa thuận của các bên là công ty Hoàng Thanh đặt công ty may Chiến Thắng may 500 bộ đồng phục theo mẫu đã được chọn lựa. Mặc dù công ty may Chiến Thắng cung cấp nguyên vật liệu nên được hiểu chính công ty này đã thực hiện hợp đồng mua bán nguyên vật liệu (vải may quần áo) cho công ty Hoàng Thanh nhưng đối tượng chính trong thỏa thuận giữa hai công ty là công việc gia công tạo nên 500 bộ đồng phục. Do vậy, đối tượng hợp đồng mà đem lại kết quả 500 bộ đồng phục theo mẫu do bên công ty Hoàng Thanh chọn lựa là một công việc. Chính vì thế, đây là hợp đồng gia công theo quy định Điều 543 BLDS năm 2015. 500 bộ đồng phục là vật được tạo nên trên cơ sở mẫu có sẵn do các bên thỏa thuận. Chính vì vậy, chủ sở hữu của 500 bộ đồng phục phải là công ty may Hoàng Thanh. Công ty may Chiến Thắng chỉ là chủ thể có nghĩa vụ chiếm hữu, quản lý và giao các vật này sau khi hoàn thành công việc cho bên thuê gia công (công ty Hoàng Thanh).

Tình huống74. Ông Hoàng Nam đặt hộ gia đình ông Trần Mạnh – chuyên sản xuất đồ gỗ – một bộ bàn ghế uống nước (gồm 1 bàn, 1 ghế dài, 2 ghế đơn) theo phong cách cổ, một giường đôi có kích thước 1,6m x 2m và một bộ bàn ghế ăn (gồm 1 bàn và 6 ghế) theo các mẫu đã được khách hàng lựa chọn, quyết định. Thời hạn thực hiện hợp đồng là 2/1/2017. Đến ngày hết hạn hợp đồng, gia đình ông Trần Mạnh cho xe ô tô chở đến nhà riêng ông Hoàng Nam để giao hàng theo như địa điểm thỏa thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, khi xe vận chuyển nhà ông Trần Mạnh chở đến nơi thì không có bất cứ ai ở nhà nhận hàng. Xe chở đồ không thể đợi được nên buộc ông Trần Mạnh phải thuê một gian kho của bà Thanh Lan hàng xóm nhà ông Hoàng Nam để các sản phẩm này với giá thuê là hai trăm nghìn đồng/đêm và ông đã báo ngay cho ông Hoàng Nam về việc này. Tuy nhiên, không may là đêm đó nhà bà Thanh Lan bị chập điện dẫn đến hỏa hoạn khiến cho bộ bàn ghế ăn bị cháy. Mọi người chỉ kịp sơ tán được bộ bàn ghế uống nước và chiếc giường. Ngày hôm sau khi ông Hoàng Nam trở về nhà, biết tình hình liền yêu cầu gia đình ông Trần Mạnh phải đóng bù cho gia đình nhà mình bộ bàn ghế ăn. Bản thân ông cũng không chi trả số tiền thuê gian kho cho bà Thanh Lan. Từ ý kiến này dẫn đến hai ông Hoàng Nam và Trần Mạnh phát sinh mâu thuẫn và cần được tư vấn xem chủ thể nào chịu rủi ro trong tình huống này.

Theo quy định tại Điều 548 và khoản 2 Điều 550 BLDS năm 2015 thì:

Tình huống 75. Anh Hoàng đặt may bộ quần áo comple tại cửa hàng may quần áo Hoàng Mùi với giá tiền công là 2 triệu. Thời hạn thực hiện hợp đồng là 20 ngày kể từ ngày tiến hành đo quần áo. Khi cửa hàng may Hoàng Mùi yêu cầu lựa chọn mẫu mã để may thì anh Hoàng đề nghị chủ cửa hàng tự chọn vì theo anh, chủ cửa hàng nắm rõ xu hướng thời trang và có kinh nghiệm lựa chọn để phù hợp với từng khách hàng. Đến hạn giao sản phẩm, anh Hoàng đến mặc thử thì anh thấy bộ comple không hợp với dáng anh và anh không cảm thấy đẹp. Tuy nhiên, vì bộ comple đã may xong nên anh vẫn lấy xong anh yêu cầu tiền công giảm một nửa, tức còn 1 triệu đồng. Ông chủ hàng may Hoàng Mùi từ chối giảm tiền công và yêu cầu hai bên cùng đến gặp chuyên gia pháp lý để có những ý kiến tư vấn hợp lý, hợp pháp.

Theo quy định tại Điều 552 BLDS năm 2015, bên đặt gia công không có quyền giảm tiền công trong hai trường hợp là sản phẩm không bảo đảm chất lượng do nguyên vật liệu mà mình đã cung cấp hoặc do sự chỉ dẫn không hợp lý của mình. Trong trường hợp này, khi anh Hoàng đồng ý cho ông chủ cửa hàng may Hoàng Mùi có quyền lựa chọn mẫu mã có nghĩa là anh hoàn toàn đồng ý với những mẫu mã mà ông này quyết định. Do đó, chính anh Hoàng có lỗi trong việc đưa ra chỉ dẫn khách hàng cho bên nhận gia công. Vì nằm trong các trường hợp pháp luật quy định không cho phép giảm tiền công nên buộc anh Hoàng vẫn phải thực hiện trả tiền công theo như nội dung thỏa thuận ban đầu.

Tình huống 76. Ông Thành có một chú chó cảnh dòng chó Phốc màu vàng nâu. Ngày 15/1/2017, con trai ông đi chơi về quên đóng cổng nên đến chiều tối, gia đình ông không thấy con chó trong nhà. Ông Thành suy đoán là con chó nhà ông đã chạy ra đường khi con trai ông quên đóng cổng. Với mong muốn tìm được chú chó, ông Thành đăng lên facebook của cá nhân với thông tin là bất cứ ai tìm được chó hoặc cung cấp thông tin liên quan đến con chó nhà ông và có hình kèm theo để mọi người dễ nhận diện thì ông sẽ cảm ơn bằng một chiếc điện thoại có giá trị 3 triệu đồng. Ngay sau khi đọc được thông báo trên, Nam (21 tuổi) miệt mài vào các trang dành cho người yêu chó hay các trang rao vặt để xem có thông tin nào liên quan đến chú chó của ông Thành không. Khi thấy có thông tin, Nam liền báo cho ông Thành và ông Thành đã đến gặp người đang chiếm hữu chú chó của ông. Sau đó, ông có đăng trên chính facebook của mình thể hiện niềm vui khi tìm được chú chó. Nam thấy ông Thành không đề cập đến việc trả thưởng theo như thông báo liền thắc mắc nhưng bị ông Thành từ chối. Ông Thành cho rằng đó chỉ là thông báo vu vơ chứ không phải tuyên bố hứa thưởng như Nam khẳng định. Nam rất bức xúc và yêu cầu chuyên gia tư vấn pháp lý có những phân tích để bảo vệ quyền lợi cho mình.

Theo như quy định tại Điều 570 BLDS năm 2015 cho thấy, thông báo của ông Thành trên mạng xã hội facebook đáp ứng điều kiện của một tuyên bố hứa thưởng. Ông Thành đưa ra điều kiện thực hiện một công việc cụ thể, có thể thực hiện được, không trái đạo đức xã hội và được thông báo công khai. Do đó, ông Nam không thể viện cớ là một thông báo vu vơ để phủ nhận nghĩa vụ của mình được phát sinh sau khi thực hiện hành vi tuyên bố hứa thưởng.

Tình huống 77. Công ty TNHH Hoàng Long muốn xây dựng nhãn hiệu cho mình nên thông báo rằng bất kỳ cá nhân nào thiết kế lô gô mà được công ty chọn sử dụng thì sẽ được nhận phần thưởng trị giá 20 triệu đồng. Thời hạn nộp lô gô là 20 ngày kể từ ngày thông báo công khai. Thời hạn tuyên bố lô gô được chọn là 3 ngày kể từ ngày hết hạn nộp lô gô. Ngay sau khi đưa ra thông báo có rất nhiều cá nhân tham gia. Đến hạn nộp các hình lô gô, công ty Hoàng Long nhận được tổng cộng 88 lô gô từ 88 cá nhân, nhóm cá nhân khác nhau. Lô gô được chọn do nhóm Sáng tạo (gồm 3 thành viên) thực hiện. Khi tiến hành trao thưởng, công ty Hoàng Long bối rối không biết phải trao thưởng như thế nào cho các thành viên nhóm Sáng tạo nên yêu cầu các chuyên gia tư vấn pháp lý có những ý kiến tư vấn cho mình.

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 572 BLDS năm 2015 thì khi nhiều người cùng cộng tác để thực hiện công việc được hứa thưởng do người hứa thưởng yêu cầu thì mỗi người được nhận một phần của phần thưởng tương ứng với phần đóng góp của mình. Do đó, trong trường hợp này, nếu không xác định được phần đóng góp của các thành viên trong nhóm Sáng tạo thì các thành viên sẽ chia đều phần thưởng 20 triệu từ công ty Hoàng Long.

Tình huống 78. Để thúc đẩy hoạt động du lịch tại Quảng Ninh, công ty cổ phần Tuần Châu quyết định tổ chức cuộc thi mang tên Người đẹp Tuần Châu dành cho phụ nữ ở độ tuổi từ 18 đến 25, chưa kết hôn lần nào, không bị kết án, có lối sống lành mạnh, có đạo đức và không bị dư luận lên án về các hành vi trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Sau khi cuộc thi kết thúc, ban tổ chức đã lựa chọn được Hoa khôi là Trịnh Thu Dung, Á khôi 1 là Hoàng Thanh Mai và Á khôi 2 là Lương Hoàng Lan. Đối với những người chiến thắng, ban tổ chức tiến hành trao các phần thưởng bằng hiện vật do các nhà tài trợ công bố còn phần thưởng bằng tiền thì ban tổ chức xin lỗi do chưa nhận được từ một số nhà tài trợ đã cam kết. Do vậy, ban tổ chức sẽ trao thưởng bằng tiền ngay khi nhận được tiền từ nhà tài trợ. Không đồng ý với quan điểm này, những cá nhân dành được chiến thắng yêu cầu các chuyên gia tư vấn pháp lý có những ý kiến nhất định để bảo vệ quyền lợi cho mình.

Theo quy định tại Điều 573 BLDS năm 2015, công ty cổ phần Tuần Châu đã tổ chức cuộc thi có giải. Do đó, nghĩa vụ của công ty này là phải trao giải cho những cá nhân tham gia và đoạt được giải thưởng.

Khi mức giải thưởng đã được công bố công khai thì bên tổ chức thi có giải có nghĩa vụ trao giải cho người đạt giải như mức đã công bố. Do đó, ban tổ chức không được viện cớ là nhà tài trợ chưa chuyển tiền để trao giải thưởng để trì hoãn việc trao giải này trừ trường hợp trong điều kiện trao giải thưởng quy định rất rõ khi nào mới trao giải thưởng đối với người đạt giải.

Tình huống 79. Ông Giang bắt được con bò lạc đi lẫn vào đàn bò của mình. Sau 2 tháng, con bò này sinh ra con bê con. 4 tháng kể từ ngày bắt được con bò lạc, ông Thiên đến nhà ông Giang xin nhận lại con bò của mình sau khi nghe thông tin nhà ông này có bắt được một con bò lạc. Sauk hi đưa ra các bằng chứng, dấu hiệu để nhận diện con bò của mình, ông Giang đồng ý trả lại con bò với điều kiện ông Thiên phải thanh toán tiền chăm con bò lạc của ông trong 4 tháng và không được đòi con bê. Ông Thiện cho rằng việc giữ lại con bên của ông Giang là không đúng quy định pháp luật nên đã đến và yêu cầu chuyên gia tư vấn pháp lý cho mình lời khuyên.

Theo quy định tại Điều 579 BLDS năm 2015, ông Giang chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật thì ông này có nghĩa vụ hoàn trả cho người sở hữu hoặc người có quyền đối với con bò lạc này.

Việc chiếm hữu của ông Giang là chiếm hữu không có căn cứ và không ngay tình vì ông hoàn toàn nhận thức được mình không phải là chủ sở hữu con bò nên theo quy định tại Khoản 1 Điều 581 BLDS năm 2015, ông Giang có nghĩa vụ phải hoàn trả cả con bê – là hoa lợi của con bò lạc – cho chủ sở hữu là ông Thiên.

Tình huống 80. Anh Thanh có nhặt được một chiếc cặp da nhãn hiệu Lacos dành cho nam giới màu nâu. Trong chiếc nắp cặp có in chữ Minh và có danh thiếp mang tên Hoàng Minh cài trong cặp. Anh Thanh có ý định trả lại anh Minh. Đến ngày hẹn trả, anh Thanh phát hiện ra con trai mình ở nhà lấy bút vẽ bậy lên cặp, lấy dao dọc giấy để khắc tên lên cặp khiến cho chiếc cặp bị rách. Chính vì vậy, anh Thanh quyết định đi mua một chiếc cặp cùng loại với chiếc cặp này để trả anh Minh. Anh Minh rất bối rối vì chiếc cặp này do người bạn thân tặng nên anh không muốn dùng một chiếc cặp cùng loại để thay thế cho chiếc cặp kia. Anh Minh liên lạc với chuyên gia tư vấn pháp lý để có được lời khuyên.

Khi nghe anh Minh trình bày, chuyên gia tư vấn pháp lý chỉ ra quy định tại Khoản 3 Điều 580 BLDS năm 2015 về việc hoàn trả tài sản là vật cùng loại nhưng tài sản bị mất hoặc hư hỏng thì người có nghĩa vụ hoàn trả có quyền dùng vật cùng loại khác để thay thế. Do đó, trong trường hợp này, anh Thanh có quyền mua chiếc cặp cùng loại để hoàn trả cho anh Minh thay cho chiếc cặp đã bị con trai anh Thanh làm hỏng.

Tình huống 81: Nhà ông Hồng có nuôi một đàn 5 con bò cái, trong đó có một con đã có mang và chuẩn bị đẻ. Trong lúc chăn thả, con bò cái đang có mang đã bị lạc sang làng bên cạnh và vào vườn rau nhà ông Sơn. Ông Sơn phát hiện ra con bò cái lạ lạc vào vườn nhà mình lúc nửa đêm, nên đã giữ lại và sáng sớm hôm sau dắt sang làng khác giao bán. Do đang có nhu cầu, nên ông Nam đã mua con bò với giá 20 triệu mà không hề hay biết đó là con bò thất lạc của gia đình ông Hồng. Nuôi trong vòng một tuần thì con bò đẻ ra con bê. Vì con bò cái và con bê con được sinh ra là giống bò tốt nên gia đình ông Nam đã giữa lại với mục đích nuôi làm giống. Nửa tháng sau khi con bò sinh con, gia đình ông Nam đã mang bò và bê đi chăn thả. Trong lúc đang chăn thả con bò thì ông Hồng đi qua và phát hiện ra con bò thất lạc gần 1 tháng của nhà mình nên ngỏ ý chuộc lại con bò và cả con bê, nhưng ông Nam không đồng ý. Tranh chấp phát sinh, nên ông Hồng đã yêu cầu Ủy ban nhân dân xã giải quyết buộc ông Nam phải trả lại bò và bê cho gia đình ông. Gia đình ông Nam có phải trả lại bò và bê cho ông Hồng không?

Trong tình huống này có thể xác định ông Nam là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình đối với con bò của ông Hồng. Do đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 579 Bộ luật dân sự năm 2015, ông Nam có nghĩa vụ hoàn trả tài sản cho ông Hồng. Tuy nhiên, tài sản hoàn trả trong trường hợp này chỉ gồm con bò (tài sản gốc) theo quy định tại Điều 580 Bộ luật dân sự năm 2015.

Đối với con bê (hoa lợi) được sinh ra trong thời gian gia đình ông Nam chiếm hữu con bò thì sẽ không phải trả lại cho ông Hồng. Bởi vì, theo quy định tại khoản 2 Điều 581 Bộ luật dân sự năm 2015, ông Nam chỉ phải trả lại những con bê được sinh ra sau khi ông đã biết con bò ông mua của ông Sơn thuộc sở hữu của ông Hồng. Trong khi đó, con bê được sinh ra trong vòng 2 tuần thì ông Nam mới biết việc chiếm hữu của mình là không có căn cứ pháp luật.

Tình huống 82: A cho B mượn máy tính xách tay VIO. Trong quá trình sử dụng, B làm vỡ màn hình. Tuy nhiên, không những không trả lại máy tính và bồi thường cho A mà B còn bán chiếc máy tính đó cho C. Do C không biết đó là máy tính của A nên C đã mua chiếc máy tính với giá 10 triệu đồng. Sau khi mua, C đã mang chiếc máy tính đi thay màn hình hết 3 triệu đồng. Sử dụng chiếc máy tính được 5 ngày thì A phát hiện sự việc và đòi lại chiếc máy tính từ C.  Xác định nghĩa vụ của A đối với C sau khi C trả lại chiếc máy tính cho A?

Trong tình huống này, C được xác định là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình. Sau khi mua chiếc máy tính, C đã bỏ ra 3 triệu để thay màn hình máy tính bị vỡ. Do đó, sau khi A đã đòi được chiếc máy tính từ C thì A phải có nghĩa vụ thanh toán cho C số tiền 3 triệu mà C đã phải bỏ ra để thay màn hình máy tính theo quy định tại Điều 583 Bộ luật dân sự năm 2015.

Tình huống 83: Anh Hùng là lái xe của Công ty vận tải X, được Công ty giao nhiệm vụ vận chuyển tài sản từ Hà Nội xuống Hải phòng. Nhận thấy đường đông xe qua lại và nhiều lối rẽ ngang từ khu dân cư nên anh Hùng lái xe rất bình tĩnh, đúng tốc độ và đi đúng phần đường quy định. Khi xe đang lưu thông qua đoạn thành phố Hải Dương, bất ngờ anh Trường điều khiển xe gắn máy tạt ngang qua mặt xe của anh Hùng, khiến cho anh Hùng không kịp phanh và lao vào xe máy do anh Trường Điều khiển. Hậu quả, anh Trường bị gẫy chân và tổn thương phần mềm, xe máy do anh điều khiển bị thiệt hại nặng. Sau khi xảy ra vụ việc, gia đình anh Trường yêu cầu anh Hùng và Công ty X phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường cho anh Trường nhưng anh Hùng và Công ty X không đồng ý. Xin hỏi anh Hùng có phải bồi thường thiệt hại cho anh Trường không?

Trong tình huống này, khi xảy ra thiệt hại, anh Hùng đang lái xe đúng tốc độ và đúng phần đường quy định, nên anh không bị coi là có lỗi đối với thiệt hại xảy ra với anh Trường. Lỗi đối với thiệt hại trong tình huống này hoàn toàn thuộc về anh Trường. Do đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015, anh Hùng không phải bồi thường thiệt hại cho anh Trường.

Tình huống 84:  Ngày 03/01/2017, do ngủ quên nên anh Cường lái xe chở con đến trường với tốc độ cao. Khi đến đoạn ngã tư Nguyễn Chí Thanh – La Thành, mặc dù đang đèn xanh nhưng do sợ con muộn giờ học nhưng anh Cường vẫn lái xe với tốc độ vượt quá mức quy định. Đúng lúc đó, do sợ muộn giờ làm nên anh Cương đã điều khiển xe mô tô vượt đèn đỏ và cắt ngay mặt xe của anh Cường, nên hai xe đã va chạm vào nhau. Hậu quả, xe anh Cương bị đổ nghiên và vỡ yếm xe, còn anh Cương bị gãy tay phải và rách phần đùi phải. Tổng thiệt hại cả về sức khỏe và tài sản đối với anh Cương là 150 triệu. Xin hãy xác định trách nhiệm của mỗi người trong tình huống trên?

Trong tình huống này, cả anh Cường và anh Cương đều có lỗi đối với thiệt hại xảy ra với anh Cương. Lỗi của anh Cường là phóng nhanh quá tốc độ cho phép, lỗi của anh Cương là vượt đèn đỏ. Do đó, theo quy định tại khoản 4 Điều 585 Bộ luật dân sự năm 2015, anh Cương sẽ không được bồi thường phần thiệt hại tương ứng do lỗi của mình gây ra. Tức là cơ quan có thẩm quyền sẽ xác định mức độ lỗi của mỗi bên để xác định mức thiệt hại mà anh Cường phải bồi thường cho anh Cương và mức thiệt hại mà anh Cương phải tự chịu.

Tình huống 85: Minh và Hoàng đều sinh năm 2010 và cùng làng với nhau nên chơi thân với nhau. Trong một lần chơi đùa cạnh thùng vôi đã tôi và nguội, Minh đã dùng gậy nghịch để hất vôi trêu đùa với Hoàng. Trong lúc nghịch, một cục vôi đã văng vào mắt Hoàng khiến cho mắt Hoàng bị tổn thương nặng, phải điều trị hết 50 triệu đồng. Sau vụ việc đó, bố mẹ của Hoàng yêu cầu bố mẹ của Minh phải bồi thường thiệt hại, nhưng bố mẹ Minh không đồng ý vì cho rằng trẻ con chơi đùa với nhau không may xảy ra thiệt hại chứ không ai có lỗi, hơn nữa thiệt hại là do Minh gây ra chứ không phải do bố mẹ Minh gây ra. Xin hỏi bố mẹ của Minh có phải bồi thường thiệt hại cho Hoàng không?

Trong tình huống này, tại thời điểm gây thiệt hại, Minh chưa đủ 15 tuổi nên Minh không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 586 Bộ luật dân sự năm 2015 thì người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Do đó, trong tình huống này, bố mẹ của Minh phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho Hoàng.

Tình huống 86: Gia đình ông Sơn và gia đình ông Nam là hàng xóm của nhau. Do gia đình ông Sơn tiến hành đào móng xây nhà nên đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến căn nhà của gia đình ông Nam. Hậu quả là tường nhà của ông Nam bị nứt một vệt dài từ trên mái xuống móng. Nhận thấy sự nguy hiểm có thể xảy ra bất cứ lúc nào nên gia đình ông Nam phải chuyển ra ở nhà thuê. Chi phí thuê nhà mỗi tháng là 5 triệu đồng. Đồng thời, gia đình ông Nam yêu cầu gia đình ông Sơn phải sửa chữa lại toàn bộ phần tường nhà bị nứt nhưng gia đình ông Sơn từ chối. Do đó, gia đình ông Nam đã phải thuê thợ về sửa nhà hết 50 triệu và trong vòng 02 tháng. Hãy xác định thiệt hại mà gia đình ông Sơn phải bồi thường cho gia đình ông Nam?

Theo quy định tại Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015, thiệt hại mà gia đình ông Sơn phải bồi thường cho gia đình ông Nam gồm:

– Thiệt hại do nhà bị hư hỏng phải sửa chữa là 50 triệu đồng;

– Thiệt hại do gia đình ông Nam không có chỗ ở nên phải đi thuê nhà trong vòng 2 tháng là 10 triệu đồng.

Tình huống 87: Ngày 20/01/2017, ông A lái xe tải chở vật liệu xây dựng từ cửa hàng về nhà để cho thợ xây dựng tiếp tục hoàn thiện công trình cho ông. Trên đường vận chuyển, một thanh sắt rơi xuống và nằm chắn ngang đường đi. Đúng lúc đó, ông B đi xe máy tới không kịp phanh nên đã lao qua thanh sắt và bị trượt bánh xe ngã xuống đường. Hậu quả là ông B bị gẫy chân phải điều trị mất 3 tháng với tổng số tiền lên tới 250 triệu. Trong thời gian đó, con gái ông B phải xin nghỉ việc không lương để chăm sóc cho ông B. Hãy xác định các loại thiệt hại mà ông A phải bồi thường cho ông B?

Trong tình huống này, ông A đã gây ra thiệt hại về sức khỏe cho ông B. Theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015, những thiệt hại mà ông A phải bồi thường bao gồm:

– Chi phí điều trị cho ông B 250 triệu đồng;

– Thu nhập bị mất, hoặc bị giảm sút của ông B (nếu có tính theo mức thực tế);

– Chi phí đi lại, ăn ở và thu nhập bị mất của con gái ông B trong thời gian chăm sóc cho ông B (tính theo mức thực tế một cách hợp lý);

– Một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do ông A và ông B tự thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết nhưng mức tối đa không vượt quá 50 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

Tình huống 88: Ngày 10/01/2017, A được công ty giao nhiệm vụ chở hàng giao cho đại lý. Trên đường từ địa điểm giao hàng trở về công ty, A đánh xe công ty về qua nhà giải quyết việc gia đình. Trên đường về nhà, xe bất ngờ nổ lốp dẫn đến bị lật bất ngờ, khiến cho bà B đi xe đạp cùng chiều bị xe đè tử vong. Xin hỏi ai phải bồi thường thiệt hại cho thân nhân của bà B và những thiệt hại được bồi thường là gì?

Trong tình huống này, thiệt hại do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (xe bất ngờ nổ lốp). Tuy nhiên, thời điểm xe gây ra thiệt hại, A đang sử dụng xe vào mục đích riêng (sử dụng trái pháp luật). Do đó, theo quy định tại khoản 4 Điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015, A phải bồi thường thiệt hại cho thân nhân của bà B.

Theo quy định tại Điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015, các loại thiệt hại mà A phải bồi thường bao gồm:

– Chi phí hợp lý cho việc mai táng cho bà B;

– Nếu trước khi chết bà B đang phải cấp dưỡng cho ai thì A phải bồi thường cả chi phí cấp dưỡng cho người đó theo quy định chung;

– Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho thân nhân của bà B với mức các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận thì yêu cầu Tòa án xác định nhưng mức tối đa không vượt quá 100 lần mức lương cơ sở do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định.

Tình huống 89: Do mâu thuẫn cá nhân nên A đã chặn đường đánh B và C. Để thực hiện kế hoạch, A đã chuẩn bị một gậy tre dài 1,5 mét với mục đích vụt B và C. Khi B và C đạp xe đến nơi, A đã lao ra vụt mạnh nhưng trúng vào ghi đông xe của B và C đang lưu thông, khiến cho B và C phải nhảy khỏi xe đạp. Ngay sau đó, B và C lao vào giằng gậy của A rồi đẩy A ngã về phía sau. Sau khi bị đẩy ngã, A đã tri hô người dân trong làng chạy ra đánh B và C. B sợ quá nhảy lên xe đạp và yêu cầu C lên xe để cùng đạp xe đi, nhưng C tiếp tục dùng gậy đập mạnh vào đầu A rồi nhảy lên xe của B và cùng đạp xe về nhà. Hậu quả là B bị rách đầu phải khâu và điều trị trong 1 tháng hết 100 triệu đồng. Pháp luật quy định như thế nào về trách nhiệm bồi thường của B và C trong tình huống này?

Trong tình huống này, A đã có hành vi tấn công B và C bằng chiếc gậy tre dài 1,5 mét. Việc B và C tước được gậy của A và đẩy A ngã về phía sau để tránh việc A tiếp tục dùng gậy vụt mình được coi là hành vi phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, ngay sau đó, A lại tiếp tục dùng gậy đập vào đầu B nhằm mục đích khiến B không thể gây thiệt hại cho mình được coi là hành vi vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng. Do đó, theo quy định tại Điều 594 Bộ luật dân sự năm 2015, B không phải bồi thường cho A, nhưng C phải bồi thường thiệt hại cho A vì đã gây ra thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng.

Tình huống 90: Trong lúc A đang bơm xăng từ xe bồn vào cây xăng của ông B tại xã X, C là khách đợi mua xăng đã đứng hút thuốc cạnh đó. A đã cảnh báo nguy hiểm và yêu cầu C dập tắt thuốc lá ngay lập tức. Tuy nhiên, thay vì dùng chân dập tắt điếu thuốc lá đang hút, C lại dùng tay búng điếu thuốc ra đường. Do gió to làm cho điếu thuốc đang cháy dỡ bay lệch hướng và rơi trúng vòi đang bơm xăng vào cây xăng. Ngay lập tức, xe bồn bốc cháy ngùn ngụt. Nhận thấy nguy cơ phát nổ cao, khả năng gây thiệt hại lớn vì lúc đó rất đông người và xe chờ bơm xăng, do đó A đã nhanh chóng điều khiển xe bồn lao qua đường và phi thẳng xuống ruộng lúc nhà ông D chuẩn bị thu hoạch. Sau đó xe bồn phát nổ gây thiệt hại lớn cho ruộng lúa nhà ông D, A may mắn đã nhảy xuống xe kịp thời nên không bị thương. Hãy xác định các loại thiệt hại và chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong tình huống trên?

Trong tình huống này, C là người đã gây ra đám cháy xe bồn (nguy cơ gây ra thiệt hại lớn cho người và tài sản đang đợi mua xăng). Để tránh nguy cơ xảy ra thiệt hại lớn, nên A đã điều khiển xe nhanh chóng lao xuống ruộng lúa nhà ông D, khiến cho ruộng lúa bị thiệt hại nặng. Nên có thể thấy, đây là trường hợp thiệt hại xảy ra trong tình thế cấp thiết.

Đối với thiệt hại về xe bồn và số xăng xe bị cháy, C phải bồi thường vì có lỗi gây ra vụ cháy, nổ xe bồn. Đối với thiệt hại với ruộng lúa của nhà ông D là do C gây ra nhưng lại thuộc phạm vi yêu cầu của tình thế cấp thiết. Do đó, C không phải bồi thường. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với số lúa nhà ông D. Vì theo quy định tại khoản 2 Điều 595, người gây ra tình thế cấp thiết phải bồi thường cho người bị thiệt hại là Công ty xăng dầu và ông D.

Tình huống 91: Năm 1970, Ông Nguyễn Văn L kết hôn với bà Phùng Hải N có 03 người con là Nguyễn Tố A, Nguyễn Hòa B và Nguyễn Hưng T. Năm 2012, ông L qua đời không để lại di chúc. Năm 2013, 03 người con cùng bà N có họp để thỏa thuận phân chia di sản. Thời điểm đó, di sản của ông xác định được là quyền sử dụng 02 căn nhà và 300 triệu đồng tiền mặt. Khi họp bàn những người thừa kế, bà N và anh B, T đều thống nhất quan điểm phân chia di sản theo hướng “02 căn nhà của hai người con trai là B và T, 300 triệu chia cho 04 người (N, B, T và A). A không chấp nhận phương án như vậy vì cho rằng, đã là con thì phải được hưởng như nhau và yêu cầu hai người anh của mình phải thanh toán cho mình phần giá trị tài sản quy đổi thành tiền mà mình được hưởng từ 02 căn nhà. Quan điểm của A là đúng hay sai?

Quan điểm của A trong tình huống trên là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Pháp luật dân sự quy định, mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật[1]. Yếu tố bình đẳng về quyền thừa kế được hiểu là “mọi cá nhân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, già trẻ,… đều có quyền để lại di sản và hưởng di sản như nhau”.

Như vậy, với nguyên tắc trên, A, B, T đều là con của L và N nên cùng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông L. Cho nên, nếu phân chia di sản thừa kế phải xác định theo từng phần bằng nhau. Ở tình huống này, yêu cầu của A xác định lại phần giá trị tài sản mà mình được hưởng từ 02 căn nhà là phù hợp. Cụ thể, di sản bao gồm 02 căn nhà chia cho 04 người (N, B, T, A).

Tình huống 92: Ngày 10/3/2016, bà H chết. Sau khi mai táng theo phong tục tập quán một thời gian, những người thừa kế của bà yêu cầu chia di sản thừa kế của bà. Hỏi, di sản của bà H có thể được xác định như thế nào?

Khi một cá nhân chết, di sản thừa kế của người này được xác định bao gồm tài sản riêng của người đó, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Với tình huống trên, di sản của bà Hằng có thể xác định dựa trên nhưng cơ sở giả thiết sau:

Thứ nhất, bà Hằng chưa kết hôn.

Những tài sản bà đang sở hữu riêng sẽ trở thành di sản của bà sau khi bà chết. Ngoài ra, việc bà sở hữu chung với người khác sẽ được xác định theo tỷ lệ phần quyền đóng góp, tạo dựng khối tài sản đó. Ví dụ: bà H có bỏ ra 500 triệu để mua chung chiếc ô tô trị giá 1 tỷ đồng với ông Hảo. Khi bà H chết, di sản sẽ được xác định là ½ giá trị chiếc ô tô tại thời điểm bà Hằng chết.

Việc xác định di sản của bà Hằng phải dựa vào các trường hợp sau đây:

Một là, thời điểm bà kết hôn, những tài sản có trước hôn nhân bà có đồng ý sáp nhập vào khối tài sản chung của vợ, chồng hay không. Nếu bà đồng ý hoặc không có căn cứ chứng minh đó là tài sản riêng của bà trước thời kỳ hôn nhân, tài sản đó sẽ là chung của vợ chồng bà[2]. Còn ngược lại, đó sẽ là tài sản riêng và khi bà chết sẽ là di sản của bà.

Hai là, sau khi kết hôn có hai căn cứ để xác định: (i) toàn bộ thu nhập hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng bà sẽ là tài sản thuộc sở hữu chung của hai vợ chồng. Khi bà Hằng chết sẽ chia thành hai phần. (ii) trong thời kỳ hôn nhân, bà có được ai đó tặng cho riêng, để lại thừa kế hay không? Nếu có, phần tài sản đó cũng được xác định là riêng của bà.

Ba là, trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng bà có góp vốn tạo lập khối tài sản thuộc sở hữu chung với ai hay không? Nếu có, phần tài sản đó của vợ, chồng bà sẽ được xác định theo tỷ lệ đóng góp và bà có được ½ trong số đó.

Tình huống 93. Ông Hàn Văn Thực chết ngày 10/7/2017 có để lại một căn nhà tọa lạc trên diện tích đất 300m2 tại Thành Phố VY, tỉnh VP. Đồng thời, ông có nợ Ngân hàng X số tiền là 3 tỷ đồng. Hỏi, thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của những người thừa kế của ông là từ thời điểm nào?(Biết rằng ông Thực chết không để lại di chúc và ông có vợ cùng 03 người con đều đã thành niên và có khả năng lao động; căn nhà của ông được định giá là 8 tỷ đồng).

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Như vậy, quyền thừa kế di sản và nghĩa vụ tài sản do ông Thực để lại (trả nợ 03 tỷ đồng cho Ngân hàng) cho vợ và 03 người con của ông Thực sẽ phát sinh kể từ thời điểm 10/7/2017.

Theo đó, những người thừa kế (vợ và các con của ông Thực) có quyền yêu cầu phân chia di sản thừa kế từ thời điểm 10/7/2017. Về nguyên tắc, thời điểm này cũng sẽ là thời điểm những người thừa kế sẽ xác lập quyền sở hữu tài sản của mình với di sản thừa kế. Tuy nhiên, một số trường hợp đặc biệt, thời điểm xác lập quyền sở hữu sẽ được xác định dựa vào thời điểm khác. Ví dụ: Di sản là nhà ở, quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu thì thời điểm xác lập quyền sở hữu sẽ là thời điểm đăng ký sang tên. Hoặc di sản bị tranh chấp thì thời điểm xác lập quyền sở hữu là thời điểm bản án của Tòa án, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực pháp luật… Và cũng tại thời điểm này, những chủ thể có quyền và lợi ích liên quan (Ngân hàng) có quyền yêu cầu những người thừa kế thực hiện nghĩa vụ trả nợ của người để lại di sản.

Tình huống 94: Năm 2017, ông Hà Hữu Th chết có để lại bản di chúc với nội dung như sau: Dành 500 triệu cho người con trai út (anh Hà Hữu B);  300 triệu cho người con thứ (chị Hà Thị H), người con cả (Hà Thị K) không có tên trong phần di chúc chỉ định hưởng nhưng có tên trong phần chỉ định nghĩa vụ “phần nghĩa vụ 1 tỷ do vay nợ Ngân hàng sẽ do con tôi là K sẽ chi trả”. Khi ông chết, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cùng những người thừa kế xác định được ông có 1,6 tỷ đồng, vợ ông chết trước ông. Hỏi chị K có phải trả toàn bộ số nợ 1 tỷ cho Ngân hàng hay không? Tại sao?

Pháp luật quy định người thừa kế được quyền hưởng di sản thừa kế đồng thời phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại. Như vậy, người con cả Hà Thị K sẽ phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà ông Th để lại. Tuy nhiên, quy định về việc thực hiện nghĩa vụ này lại xác định răng, những người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản họ được hưởng, trừ trường hợp họ tự nguyện thực hiện. Như vậy, để giải quyết triệt để tình huống này, chúng ta cần xác định phần di sản mà mỗi người hưởng, theo đó:

Với kết quả trên và quy định của pháp luật[3], chúng ta phải đặt ra 02 giả thiết như sau:

Tình huống 95.  Bà Nguyễn Thị X có chồng là ông Hoàng Y và 03 người con là Hoàng L, Hoàng M, Hoàng T (đều đã thành niên có khả năng lao động). Đầu năm 2017, bà X chết do tai nạn giao thông. Sau khi mai táng, ông Y là chồng vẫn quản lý tài sản và sử dụng tài sản chung của hai ông bà đã có từ trước. Cuối năm 2017, ông có đưa bà Phan H về nhà để sinh sống như vợ, chồng cùng ông. Ông và bà H vẫn quản lý và sử dụng tài sản chung đó, thậm chí còn thu hoa lợi, lợi tức từ nhiều tài sản chung của ông Y và bà X (đã có trong thời kỳ hôn nhân). Những người con có thỏa thuận với bố để phân chia quyền quản lý di sản nhưng ông Y không đồng ý. Ông cho rằng, sau khi vợ ông là bà X chết, ông sẽ là người có quyền quản lý cũng như hưởng toàn bộ di sản thừa kế của bà X. Hỏi, quan điểm của ông Y về việc quản lý di sản thừa kế của bà X có đúng hay không?

Với tình huống trên, quan điểm của ông Y không hoàn toàn chính xác vì các lý do sau:

Kết luận: Ông Y chỉ có thể trở thành người quản lý di sản nếu rơi vào một trong các trường hợp nêu trên.

Tình huống 96.  Vẫn những dữ kiện nêu ở tình huống (95) nói trên, ông Y và người phụ nữ (Phan H) chung sống với ông như vợ, chồng vẫn sử dụng công nhiên, khai thác công dụng hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản là di sản mà bà X (một phần) để lại. Các con của ông đã nhiều lần yêu cầu ông và cô H dừng việc khai thác để tránh ảnh hưởng tới giá trị của các loại tài sản đó nhưng ông Y và H vẫn không chấp thuận. Hỏi, nếu vẫn dừng lại ở vấn đề quản lý di sản thừa kế và ông Y có thể trở thành người thừa kế, ông sẽ phải thực hiện các loại nghĩa vụ của mình như thế nào?

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, nếu ông Y trở thành người quản lý di sản (thuộc vào các trường hợp đã phân tích ở trên), ông Y phải có các nghĩa vụ sau:

–  Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

–  Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;

–  Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;

–  Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

–  Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

Như vậy, với những nghĩa vụ kể trên, ông Y phải thực hiện để đảm bảo quyền lợi cho các đồng thừa kế khác. Tuy nhiên, cũng với những quy định trên gián tiếp khẳng định, ông Y có quyền khai thác công dụng của tài sản thậm chí hưởng hoa lợi, lợi tức từ di sản nếu không làm ảnh hưởng tới giá trị của tài sản (không có thiệt hại).

Tình huống 97. Với tình huống trên (95), giả sử ông Y là người được bà X chỉ định trong di chúc là người quản lý toàn bộ di sản thừa kế của bà. Đồng thời, sau khi bà chết, Tòa án xác định vụ tai nạn giao thông gây ra cái chết của bà và của anh Phạm G hoàn toàn do lỗi của bà. Bà phải bồi thường thiệt hại 200 triệu đồng cho người thân của anh Phạm G. Hỏi, người thân của anh Phạm G có quyền yêu cầu ông Y bồi thường thiệt hại hay không? Ông Y còn có quyền gì trong khoảng thời gian quản lý di sản hay không?

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, ông Y khi đã trở thành người quản lý di sản thừa kế của bà X (được bà chỉ định trong di chúc) sẽ có các quyền năng sau đây:

Thứ nhất, ông Y có quyền đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế. Theo đó, ông Y có quyền đại diện cho những người thừa kế của bà X để trích 200 triệu đồng bồi thường thiệt hại cho người thân của anh Phạm G.

Thứ hai, ngoài quyền năng trên, ông Y còn được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế khác của bà về việc trông coi, bảo quản di sản thừa kế trong thời gian quản lý di sản.

Thứ ba, ông Y có thể được thanh toán chi phí bảo quản di sản (nếu có).

Tình huống 98.  Nguyễn Hoàng là con trai duy nhất của ông Nguyễn Đế, đã có vợ là Phan Phương và con là Nguyễn Chí. Ngày 10/2/2017, ông Nguyễn Đế chết có để lại di chúc cho anh Nguyễn Hoàng được hưởng toàn bộ di sản thừa kế. Tuy nhiên, trước thời điểm này, do làm ăn thua lỗ nên anh Nguyễn Hoàng đang bị công ty ATZ khởi kiện về hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế… Theo đơn khởi kiện này, số tiền anh Hoàng phải trả cho công ty này rất lớn (bao gồm cả tài sản anh có và di sản thừa kế anh được nhận). Tuy nhiên, sau khi bố anh chết, anh đã làm thủ tục để từ chối nhận di sản thừa kế của ông. Nhận thấy có hiện tượng tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ, công ty ATZ khởi kiện yêu cầu bác bỏ quyền từ chối quyền hưởng di sản thừa kế của anh Hoàng. Hỏi, yêu cầu của công ty ATZ có căn cứ pháp lý hay không?

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, anh Nguyễn Hoàng hoàn toàn có quyền từ chối nhận di sản từ cha mình là ông Nguyễn Đế. Tuy nhiên, việc từ chối hưởng di sản thừa kế phải đảm bảo các điều kiện sau:

Thứ nhất, việc từ chối không nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Như vậy, nếu công ty ATZ chứng minh được, việc anh Nguyễn Hoàng từ chối quyền hưởng di sản thừa kế đang nhằm trốn tránh nghĩa vụ với công ty mình thì yêu cầu này của công ty là hoàn toàn là phù hợp.

Thứ hai, việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.

Thứ ba, việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.

Dựa vào các điều kiện trên, công ty ATZ hoàn toàn có thể bác yêu cầu của anh Nguyễn Hoàng về việc từ chối nhận di sản thừa kế nếu nhận thấy việc từ chối vi phạm một trong các điều kiện nói trên.

Tình huống 99.  Ông Đào Văn Ao hỏi bố tôi bị bệnh nhũn não năm 2006. Năm 2008, sức khỏe của ông hồi phục, ông có lập bản di chúc định đoạt toàn bộ tài sản cho tôi. Năm 2017, ông chết, các con của ông trong đó có tôi tranh chấp nhau về nội dung bản di chúc mà ông đã lập. Hỏi, bản di chúc của bố tôi lập có chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã có hợp pháp không?

Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, cá nhân có quyền lập di chúc nhưng phải thỏa mãn các điều kiện sau:

Thứ nhất, người đó đã thành niên.

Thứ hai, người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép.

Với hai điều kiện trên, xét trong tình huống thì di chúc mà bố ông Ao lập sẽ hợp pháp khi thỏa mãn quy định về yếu tố mình mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép. Do đó, để chứng minh bản di chúc là hợp pháp, ông Ao sẽ phải chứng minh được căn bệnh nhũn não của bố mình đã được khắc phục vào thời điểm năm 2008. Căn bệnh này không ảnh hưởng tới khả năng nhận thức, điều khiển hành vi hay nói cách khác là sự minh mẫn và sáng suốt của ông ấy. Đồng thời, các thủ tục chứng thực bản di chúc tại UBND cấp xã cũng được thực hiện đúng quy định.

Tình huống 100. Ngày 20/3/2017, khi đang tham gia giao thông trên đường, anh Hảo Sĩ Hán có va quyệt với một xe contenner bị thương rất nặng và mất nhiều máu. Trên đường đưa anh đi cấp cứu trên xe cứu thương, anh có trăn trối lại trước 01 bác sĩ và 01 điều dưỡng viên rằng “anh có di nguyện để toàn bộ số tiền tiết kiệm anh có trong ngân hàng X cho vợ anh là bà Mỹ Thị Nhân, anh để lại ngôi nhà 05 tầng trên diện tích đất 100m2 tại Phường X, Quận Y, Tỉnh N cho chị Kiều Nương (người được cho là nhân tình của anh Hán). Hỏi, di nguyện của anh Hảo Sĩ Hán muốn hợp pháp phải thỏa mãn điều kiện nào?

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, một người khi tính mạng bị đe dọa không thể lập di chúc bằng văn bản có quyền lập di chúc miệng. Như vậy, di nguyện của anh Hán trong tình huống trên hoàn toàn có thể đưa vào di chúc và đảm bảo thực hiện ở dạng di chúc miệng, nếu thỏa mãn các điều kiện sau:

Thứ nhất, người di chúc miệng (anh Hán) thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng. Hai người làm chứng phải thỏa mãn điều kiện: (i) không phải là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; (ii) không phải là người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc; (iii) không phải là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Thứ hai, ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ.

Thứ ba, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

Như vậy, nếu di chúc của anh Hán thỏa mãn các quy định trên sẽ hợp pháp và phát sinh hiệu lực sau khi anh chết.

[2]Điều 33 Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2014.

TÌNH HUỐNG 1: Khi phát hiện ra con trâu lạc vào đàn trâu nhà mình, ông An đã báo cho UBND xã biết. Theo lời cán bộ UBND xã, ông An đem trâu về nhà mình nuôi giữ, chờ nguời mất trâu đến nhận lại. Ba tháng sau, ông Bình là người có con trâu bị thất lạc biết tin đã đến gặp ông An đòi lại trâu và yêu cầu ông An phải bồi thường thiệt hại vì vụ mùa vừa qua ông phải thuê trâu để cày ruộng. Ông An không đồng ý vì cho rằng ông không bắt trộm trâu và đòi ông Bình phải thanh toán tiền công và các chi phí nuôi giữ trâu ba tháng. Là Tổ viên Tổ Hoà giải, theo ông (bà) việc này nên hòa giải như thế nào?

– Pháp luật: Điều 242, Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định “Xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc” như sau:“Người bắt được gia súc bị thất lạc phải nuôi giữ và báo cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Chủ sở hữu nhận lại gia súc bị thất lạc phải thanh toán tiền công nuôi giữ và các chi phí khác cho người bắt được”.

– Đạo lý: Phát huy truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam: “Đói cho sạch, rách cho thơm”, “Không tham của người”, “Nhặt được của rơi, trả lại người bị mất” là một việc làm rất tốt, có tinh thần tương thân, tương ái, giúp đỡ mọi người. Đó cũng chính là bản chất thật thà, bình dị, của người Việt Nam từ ngàn xưa, nhất là phát huy tình làng, nghĩa xóm, “Mình vì mọi người, mọi người vì mình” …

TÌNH HUỐNG 2: Hai anh em nhà ông Mão và ông Dậu ở kề sát nhau. Ông Dậu ở phía trong, ông Mão ở phía ngoài, hai nhà cùng chung một ngõ (đây là lối đi duy nhất vào nhà ông Dậu). Con trai ông Dậu thường xuyên tụ tập bạn bè ở đầu ngõ, dựng xe bừa bãi, gây ồn ào. Sau nhiều lần nhắc nhở em trai và cháu mình nhưng không thấy có chuyển biến gì, ông Mão đã rào ngõ lại, không cho gia đình nhà ông Dậu đi qua. Là Tổ viên Tổ Hoà giải, theo ông (bà) việc này nên hòa giải như thế nào?

– Pháp luật: Khoản 1, Điều 275, Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định “Quyền về lối đi qua bất động sản liền kề”, cụ thể: “Chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có quyền yêu cầu một trong những chủ sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi ra đến đường công cộng; người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Người được dành lối đi phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản liền kề, nếu không có thoả thuận khác.”

– Đạo lý: Phát huy truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tình cảm gia đình “Anh em như thể tay chân, anh em hòa thuận song thân vui vầy”; thực hiện nếp sống gia đình văn hoá, xây dựng thôn, khu phố văn hoá. “chuyện anh em trong nhà đóng cửa nhẹ nhàng bảo nhau”…

TÌNH HUỐNG 3: Nhà bà Lan và nhà ông Tư sát cạnh nhau, khi sửa nhà, bà Lan làm thêm mái tôn che mưa nhưng không làm đường thoát nước. Do vậy, mỗi khi trời mưa, nước từ mái tôn nhà bà Lan chảy sang mái bằng nhà ông Tư và thấm xuống các phòng bên dưới. Khi ông Tư yêu cầu bà Lan phải làm đường thoát nước thì bà Lan cho rằng việc nhà ông Tư bị thấm nước là do mái nhà ông đã không được xử lý chống thấm, việc này không can hệ gì tới bà. Ông Tư đã tới gặp Tổ trưởng Tổ hòa giải đề nghị giúp đỡ. Nếu được giao việc này, ông (bà) sẽ hoà giải mâu thuẫn giữa hai gia đình như thế nào?

– Pháp luật: Điều 269, Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định “Nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc thoát nước mưa”, cụ thể như sau: “Chủ sở hữu nhà phải lắp đặt đường dẫn nước sao cho nước mưa từ mái nhà của mình không được chảy xuống bất động sản của chủ sở hữu bất động sản liền kề”.

– Đạo lý: “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”; “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”; Truyền thống tương thân tương trợ lẫn nhau “Bầu ơi thương lấy bí cùng – Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”… Không nên để “cái sảy nảy cái ung”, ông bà ta từng nói “bà con xa không bằng láng giềng gần”, “tối lửa tắt đèn có nhau”…

TÌNH HUỐNG 4: Ông bà Sử có người con đẻ là anh Hà và người con nuôi là chị Lê. Ông bà Sử nhận chị Lê về nuôi từ lúc chị Lê một tuổi và đã làm thủ tục đăng ký tại UBND xã. Sau khi ông bà Sử mất, chị Lê yêu cầu được chia thừa kế tài sản của ông bà Sử để lại nhưng anh Hà không đồng ý vì cho rằng chị Lê là con nuôi của bố mẹ anh nên toàn bộ số tài sản đó thuộc quyền sở hữu của anh. Ông (bà) hãy cho ý kiến về việc làm của anh Hà và phương án hoà giải trường hợp này?

– Pháp luật: Căn cứ theo Điểm a, Khoản 1, Điều 676, Bộ Luật Dân sự năm 2005 thì anh Hà và chị Lê thuộc hàng thừa kế thứ nhất: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Đồng thời, khoản 2, Điều 676,  Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định: “Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần thừa kế di sản bằng nhau”.

– Đạo lý: “Một giọt máu đào, hơn ao nước lã”; “Anh em như thể tay chân, anh em hòa thuận song thân vui vầy”, không nên để những chuyện toan tính, nhỏ nhen, ích kỷ, hẹp hòi và lợi ích vật chất đánh mất đi tình cảm anh em trong một gia đình…

TÌNH HUỐNG 5: Nhà ông Hoàng và nhà ông Tình thầu hai đầm thả cá ở sát nhau. Ông Hoàng nuôi toàn cá rô phi, ông Tình nuôi toàn cá mè. Việc này dân trong làng đều biết. Sau một trận mưa rào, cá từ đầm nhà ông Hoàng tràn sang đầm nhà ông Tình. Ngay sau đó, ông Tình bắt cá rô phi trong đầm nhà mình để đem bán. Ông Hoàng biết chuyện đã yêu cầu ông Tình phải trả lại số cá rô phi mà ông Tình đã bắt. Ông Tình không đồng ý vì cho rằng “cá vào ao ta, ta được”. Hai bên cãi nhau, mâu thuẫn xảy ra. Là Tổ viên Tổ hòa giải, ông (bà) hòa giải vụ việc này như thế nào?

– Pháp luật: Điều 244, Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định về “Xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước”, cụ thể: “Khi vật nuôi dưới nước của một người di chuyển tự nhiên vào ruộng, ao, hồ của người khác thì thuộc sở hữu của người có ruộng, ao, hồ đó. Trong trường hợp vật nuôi dưới nước có dấu hiệu riêng biệt để có thể xác định vật nuôi không thuộc sở hữu của mình, thì người có ruộng, ao, hồ đó phải thông báo công khai để chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận, thì vật nuôi dưới nước thuộc sở hữu người có ruộng, ao, hồ đó”.

– Đạo lý: Tình làng nghĩa xóm “Tối lửa tắt đèn có nhau”, “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”; “Của người thì trả lại cho người”; “Đói cho sạch, rách cho thơm”…

TÌNH HUỐNG 6: Ông Ba và ông Bình cư ngụ trên cùng các thửa đất liền kề nhau. Từ trước đến nay cả 2 hộ đều sử dụng chung một lối đi nằm trên phần đất của ông Ba ra đường công cộng. Gần đây, ông Bình phân lô đất của mình và bán cho bà Na xây nhà ở nhưng không chừa lối đi cho bà. Do vậy bà Na cũng dùng lối đi chung trên phần đất của ông Ba. Ông Ba không đồng ý và dùng kẽm gai rào lối đi. Mâu thuẫn xảy ra. Là thành viên tổ hòa giải, ông (bà) hoà giải mâu thuẫn trên như thế nào?

– Pháp luật: Theo quy định tại Khoản 1, Điều 275, Bộ Luật Dân sự: “Chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi thuận tiện và hợp lý ra đến đường công cộng, người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Người được dành lối đi phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản liền kề, nếu không có thỏa thuận khác. Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi”.

– Đạo lý: Tình làng nghĩa xóm “Tối lửa tắt đèn có nhau”, “Bán anh em xa mua láng giềng gần”; tinh thần biết hy sinh vì lợi ích tập thể “Mình vì mọi người” Đã là hàng xóm láng giềng cần tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ nhau…

TÌNH HUỐNG 7: Anh Tú đang tiến hành xây dựng căn nhà liền kề nhà ông Đồng. Trong quá trình thi công, anh đã xây phần ban công dôi ra lấn sang phần không gian nhà ông Đồng. Ông Đồng ngăn cản, cho rằng anh Tú lấn chiếm đất của mình. Anh Tú có ý kiến phần không gian này không thuộc sở hữu của ông Đồng. Hai bên phát sinh mâu thuẫn, gây gổ với nhau. Là thành viên tổ hòa giải, ông (bà) hòa giải mâu thuẫn trên như thế nào?

– Pháp luật: Theo khoản 2, điều 265, Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định về “Nghĩa vụ tôn trọng ranh giới giữa các bất động sản”, cụ thể như sau: “Người có quyền sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới trong khuôn viên đất phù hợp với quy hoạch xây dựng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất liền kề của người khác. Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

– Đạo lý: Tình làng nghĩa xóm “Tối lửa tắt đèn có nhau”, “Bán anh em xa mua láng giềng gần”; tinh thần biết hy sinh vì lợi ích tập thể “Mình vì mọi người”… Khuyên hai người không nên gây gổ nhau “Lời nói không mất tiền mua; lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”…

Vườn ông An trồng một cây xoài có một số nhánh ngã qua phần đất vườn ông Bình. Nhánh xoài ngã sang phần đất ông Bình ra trái, ông Bình hái sử dụng mà không hỏi ý kiến ông An vì cho rằng trái nằm trên phần đất của ông thì ông có quyền được hưởng. Ông An không đồng ý, hai bên lời qua tiếng lại, tranh chấp xảy ra. Là thành viên tổ hòa giải, ông (bà) hòa giải tranh chấp trên như thế nào?

– Pháp luật:  Theo quy định tại khoản 2, Điều 265, Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định “Nghĩa vụ tôn trọng ranh giới giữa các bất động sản: Người có quyền sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới trong khuôn viên đất phù hợp với quy hoạch xây dựng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất liền kề của người khác. Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

– Đạo lý: Cha ông ta thường răn dạy “không nên tham của người khác”, “đói cho sạch, rách cho thơm”… Vả lại, hai người là hàng xóm của nhau, cần coi trọng tinh thần “bán anh em xa mua láng giềng gần”, giúp đỡ nhau, giữ hòa khí với nhau “tối lửa tắt đèn có nhau”…

TÌNH HUỐNG 9: Tùng (12 tuổi) là con ông Quý thường xuyên trốn học đi chơi nhưng nhà trường không báo cho ông Quý biết. Một lần trốn học chơi đá banh, Tùng đá banh trúng cửa nhà bà Nga làm vỡ kính. Bà Ngà đòi ông Quý bồi thường kính vỡ, ông Quý không đồng ý cho rằng Tùng làm vỡ kính trong thời gian nhà trường quản lý (thời gian học ở trường), do đó ông không có trách nhiệm phải bồi thường. Giữa hai bên xảy ra mâu thuẫn. Là thành viên tổ hòa giải, ông (bà) hòa giải mâu thuẫn trên như thế nào?

– Pháp luật: Theo khoản 1, Điều 621, Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định “Bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý: Người dưới mười lăm tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra”.

– Đạo lý: Nêu trách nhiệm của người làm cha mẹ: “Con dại cái mang”, “Thương cho roi cho vọt”, tránh nuông chiều con cái, không quan tâm quản lý, giáo dục thì con cái dễ chơi bời lêu lỏng, dễ hư hỏng. Phía nhà trường cần nêu cao trách nhiệm quản lý, giáo dục theo phương châm “Kỷ luật – Tình thương – Trách nhiệm”, “Tất cả vì học sinh thân yêu”, “Thi đua dạy tốt, học tốt”…

TÌNH HUỐNG 10: Bà Ba là chủ quán kinh doanh ăn uống trên đường Y thường xuyên xả nước thải, thức ăn thừa ra đường, mọi người góp ý, thì bà lại đổ thức ăn thừa, nước thải xuống ống cống thoát nước của khu phố. Đến mùa mưa, cống bị nghẽn nên nước, thức ăn thừa tràn lên đường, gây mất vệ sinh và cản trở cho việc đi lại. Là thành viên tổ hòa giải, ông (bà) hòa giải tranh chấp trên như thế nào?

– Pháp luật: Điều 270, Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “Nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc thoát nước thải: Chủ sở hữu nhà phải làm cống ngầm hoặc rãnh thoát nước để đưa nước thải ra nơi quy định, sao cho nước thải không tràn sang bất động sản của chủ sở hữu bất động sản liền kề, ra đường công cộng hoặc nơi sinh hoạt công cộng làm ô nhiễm môi trường”.

Điều 82, Luật bảo vệ mội trường năm 2014 có quy định về yêu cầu bảo vệ môi trường đối với hộ gia đình như:  Giảm thiểu, phân loại tại nguồn, thu gom và chuyển rác thải sinh hoạt đến đúng nơi quy định; Giảm thiểu, xử lý và xả nước thải sinh hoạt đúng nơi quy định.

– Đạo lý: Tình làng nghĩa xóm “Tối lửa tắt đèn có nhau”, “Bán anh em xa mua làng giềng gần”; tinh thần biết hy sinh vì lợi ích tập thể “Mình vì mọi người”; cư xử có văn hóa; nêu cao ý thức “Bảo vệ môi trường là bảo vệ sự sống của chúng ta”; góp phần xây dựng khu phố “xanh, sạch, đẹp”…

TÌNH HUỐNG 11: Nhà anh Hà và nhà chị Thanh ở cùng chung cư X, sử dụng chung một khoảng sân. Anh Hà dạy thêm tại nhà, các em đến học thường xuyên để xe tràn lan, chiếm hết khoảng sân gây cản trở việc đi lại của gia đình chị Thanh. Chị Thanh nhiều lần nhắc nhở, nhưng gia đình anh Hà vẫn chưa khắc phục. Hai gia đình thường to tiếng làm mất trật tự xung quanh. Là thành viên Tổ hòa giải, ông (bà) hòa giải tranh chấp trên như thế nào?

– Pháp luật: Theo quy định tại Điều 225, Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về sở chung trong nhà chung cư: Phần diện tích, trang thiết bị dùng chung trong nhà chung cư thuộc sở hữu chung của tất cả chủ sở hữu các căn hộ trong nhà đó và không thể phân chia, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc có sự thỏa thuận của tất cả các chủ sở hữu. Chủ sở hữu các căn hộ trong nhà chung cư có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý, sử dụng phần diện tích và thiết bị chung.

– Đạo lý: Ông bà ta có câu “bán anh em xa mua láng giềng gần”, “làng xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau”, cư xử có văn hóa“Lời nói không mất tiền mua – Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”,“Chim khôn kêu tiếng rảnh rang – Người khôn ăn nói dịu dàng dễ nghe”…

TÌNH HUỐNG 12: Do vị trí tự nhiên thửa đất nhà ông Sung liền kề và cao hơn thửa đất nhà ông Bời. Ông Sung đã lắp đặt một hệ thống ống thoát nước mưa từ nhà mình sang đất nhà ông Bời để ra đường thoát nước công cộng. Khi mưa xuống, do ống bị bể, nước xối làm trôi đất của nhà ông Bời, nên ông Bời đắp đất lại để không cho nước chảy, do đó mâu thuẫn xảy ra. Là thành viên tổ hòa giải, ông (bà) hòa giải trường hợp trên như thế nào?

– Pháp luật: Điều 277, Bộ luật dân sự năm 2005 quy định quyền về cấp thoát nước qua bất động sản liền kề: “Trong trường hợp do vị trí tự nhiên của bất động sản mà việc cấp thoát nước buộc phải qua một bất động sản khác, thì chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua phải dành một lối cấp thoát nước thích hợp, không được cản trở hoặc ngăn chặn dòng nước chảy. Người sử dụng lối cấp, thoát nước phải hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua khi lắp đặt đường dẫn nước; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường”.

– Đạo lý: “bà con xa không bằng láng giềng gần”, “tối lửa tắt đèn có nhau” , không nên để “cái sảy nảy cái ung”, …

TÌNH HUỐNG 13: Anh Hải kết hôn với chị Bảo là người cùng xã. Sáu tháng sau, chị Bảo sinh một cháu trai. Hàng xóm đồn đại rằng con trai anh không giống anh, mà giống anh Cường, bạn cũ của chị Bảo. Ban đầu, anh Hải không tin nhưng vì nghe nhiều người nói nên anh về căn vặn và nặng lời với vợ. Đôi lúc anh Hải còn tuyên bố thằng bé không phải là con anh. Chị Bảo giải thích và khuyên anh Hải không nên tin vào những lời đồn đãi nhưng anh vẫn không nghe. Mâu thuẫn giữa hai vợ chồng ngày càng căng thẳng. Là Tổ viên Tổ hoà giải, ông (bà) sẽ hoà giải vụ việc trên như thế nào?

– Pháp luật: Điều 88, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định việc xác định cha, mẹ như sau:

“1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.

2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định”.

Điều 89, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định việc xác định con như sau:

“1. Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó là con mình.

2. Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình”.

– Đạo lý: Vợ chồng phải đặt niềm tin ở nhau, “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”… Khuyên anh Hải không nên nghe những lời đồn đại, đừng vì “búa rìu dư luận” mà làm đổ vỡ tình cảm vợ chồng, gia đình. Đã là vợ chồng càng cần phải cẩn trọng hơn trong lời nói, cần phải xem xét cụ thể, không vì lời đồn không xác thực mà đánh mất đi tình cảm vợ chồng, bản thân không vui mà nhiều khi còn ân hận  về sau “Lời nói không mất tiền mua –Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.

TÌNH HUỐNG 14: Vợ chồng anh Kính và chị Hồng là công chức Nhà nước, anh chị có hai con, kinh tế gia đình ổn định. Bà con hàng xóm ai cũng khen anh chị hạnh phúc. Thời gian gần đây, anh Kính có quan hệ với một người phụ nữ khác và bỏ mặc, không quan tâm đến vợ con. Sau khi tìm hiểu rõ sự việc, chị Hồng đã hỏi chồng nhưng anh Kính chối và không cho chị can thiệp vào việc riêng của mình. Hai vợ chồng thường to tiếng với nhau, chị Hồng dẫn hai con về nhà mẹ đẻ. Gia đình có nguy cơ tan vỡ. Là Tổ viên Tổ hoà giải ông (bà) sẽ giải quyết việc trên như thế nào?

– Pháp luật: Điều 19, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”.

– Đạo lý: Tình nghĩa vợ chồng là đáng quý, “Thuận vợ, thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”; “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”… Phân tích cho anh Kính thấy: Đã là vợ chồng, gá nghĩa trăm năm, sao lại đành dứt tình dứt nghĩa? Đạo làm người và phép xử thế trong ca dao tục ngữ đã luôn nhắc nhở cho mọi người “Trách người một, trách ta mười – Bởi ta tệ trước nên người tệ sau” Khuyên chị Hồng cần bình tĩnh:“Chồng nóng thì vợ bớt lời, cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê”.

TÌNH HUỐNG 15: Vợ chồng anh An và chị Mai sinh được hai con gái. Anh An là con trưởng trong gia đình nên rất muốn có con trai để nối dõi, anh bàn với vợ sinh thêm đứa con thứ ba với hy vọng sẽ là con trai nhưng chị Mai không chịu. Buồn chán, anh An thường bỏ bê công việc đi uống rượu, về nhà mắng chửi vợ con, gia đình có nguy cơ tan vỡ. Là Tổ viên Tổ hoà giải, ông (bà) sẽ hoà giải vụ việc trên như thế nào?

– Pháp luật: Điều 2, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình như sau:

– Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.

– Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con.

– Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình.

Điều 21, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định về việc tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng: “Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau”.

– Đạo lý: “Con nào chẳng là con”; “Dù gái hay trai, chỉ hai là đủ”; Mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có 1 hoặc 2 con, vì xã hội phồn vinh… Không phân biệt con trai hay con gái, khuyên hai vợ chồng biết quan tâm, chăm sóc, giáo dục, dạy dỗ cho hai con học đến nơi đến chốn, ngoan ngoãn, lớn lên trở thành người con hiếu thảo, có ích cho xã hội…

TÌNH HUỐNG 16: Gia đình bà Hạnh mở tiệm cơm tấm bình dân. Sáng nào bà Hạnh cũng mang bếp than tổ ong ra trước tiệm nhóm lửa, nướng thịt làm khói bay mù mịt vào những nhà xung quanh. Không những thế, bà Hạnh còn thường xuyên đổ rác, nước thải ở gốc cây gần nhà ông Minh gây ô nhiễm môi trường chung. Ông Minh và hàng xóm đã góp ý nhiều lần nhưng bà Hạnh không chịu sửa mà còn có thái độ thách thức. Là Tổ viên Tổ hoà giải, ông (bà) giải quyết việc trên như thế nào?

– Pháp luật: Khoản 1, Điều 68, Luật bảo vệ môi trường năm 2014 quy định bảo vệ môi trường cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ như sau: “Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường sau:

– Thu gom, xử lý nước thải bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật môi trường;

– Thu gom, phân loại, lưu giữ, xử lý, thải bỏ chất thải rắn theo quy định của pháp luật;

– Giảm thiểu, thu gom, xử lý bụi, khí thải theo quy định của pháp luật; bảo đảm không để rò rỉ, phát tán khí độc hại ra môi trường; hạn chế tiếng ồn, độ rung, phát sáng, phát nhiệt gây ảnh hưởng xấu đối với môi trường xung quanh và người lao động.

Tại Điều 82, Luật bảo vệ môi trường năm 2014 quy định về yêu cầu bảo vệ môi trường đối với hộ gia đình như sau: Giảm thiểu, phân loại tại nguồn, thu gom và chuyển rác thải sinh hoạt đến đúng nơi quy định; Giảm thiểu, xử lý và xả nước thải sinh hoạt đúng nơi quy định; Không được phát tán khí thải, gây tiếng ồn, độ rung và tác động khác vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến cộng đồng dân cư xung quanh.

– Đạo lý: Tình làng nghĩa xóm “Tối lửa tắt đèn có nhau”, “Bán anh em xa mua láng giềng gần”; tinh thần biết hy sinh vì lợi ích tập thể “Mình vì mọi người”; cư xử có văn hóa “Lời nói không mất tiền mua – Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”,“Chim khôn kêu tiếng rảnh rang – Người khôn ăn nói dịu dàng dễ nghe”…

TÌNH HUỐNG 17: Gia đình ông A và ông B là hàng xóm của nhau (nhà ông B ở phía trong, ông A ở phía ngoài, ông B muốn đi ra chỉ có thể đi qua đất nhà ông A). Do hiềm khích cá nhân, ông A đã xây bờ tường chặn lối đi ra ngoài của nhà ông B, nhà ông B muốn ra ngoài phải xin phép ông A. Ông A và ông B hay xích mích, gây gỗ với nhau về lối đi, ông B yêu cầu ông A phải để lối đi ra ngoài cho mình, ông A kiên quyết không đồng ý. Là Tổ viên Tổ hoà giải ông (bà) sẽ giải quyết việc trên như thế nào?

– Pháp luật: Theo quy định tại Điều 171 của Luật đất đai năm 2013, quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề bao gồm quyền về lối đi; cấp, thoát nước; tưới nước, tiêu nước trong canh tác; cấp khí ga; đường dây tải điện, thông tin liên lạc và các nhu cầu cần thiết khác một cách hợp lý trên thửa đất liền kề.

Việc xác lập quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề thực hiện theo quy định của pháp luật dân sự và phải thực hiện đăng ký đất đai theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, tại Điều 275 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng đã quy định rõ:

“1. Chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có quyền yêu cầu một trong những chủ sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi ra đến đường công cộng; người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Người được dành lối đi phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản liền kề, nếu không có thoả thuận khác.

Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.

2. Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thoả thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định.

3. Trong trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định tại khoản 2 Điều này mà không có đền bù”.

– Đạo lý: ông cha ta từng nói “bà con xa không bằng láng giềng gần”, “tối lửa tắt đèn có nhau”, không nên để “cái sảy nảy cái ung”, mâu thuẫn này chồng chất lên mâu thuẫn khác dễ xảy ra hậu quả khó lường trước được…

TÌNH HUỐNG 18: Nhà ông H liền kề với nhà ông M. Trên phần đất giáp ranh giữa hai nhà, ông M có trồng 02 cây nhãn. Theo thời gian, cây phát triển, nhiều cành ngả sang phần đất nhà ông H. Lá cây rụng nhiều tích tụ làm hư mái ngói nhà ông H. Hơn nữa, một cây còn bị nghiêng có nguy cơ đe dọa đổ sập vào nhà ông H. Đã nhiều lần ông H sang thương lượng với ông M về việc chặt các cành vươn sang đất nhà ông H và đốn cây nhãn bị nghiêng đi nhưng ông M không đồng ý. Ông H không kiềm chế được, tính tình ông H vốn nóng nảy nên đã to tiếng cãi vả với ông M, nhiều lần hai ông xích mích qua lại, những người hàng xóm xung quanh khuyên can nhưng cả hai ông không nghe. Là Tổ viên Tổ hoà giải, nếu phải hòa giải vụ việc trên thì ông (bà) sẽ giải quyết như thế nào?

– Pháp luật: Vấn đề được hỏi quy định tại Điều 265 và Điều 272 của Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo đó, tại khoản 2 Điều 265 Bộ luật Dân sự quy định về nghĩa vụ tôn trọng ranh giới giữa các bất động sản như sau: người có quyền sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới trong khuôn viên đất phù hợp với quy hoạch xây dựng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất liền kề của người khác. Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Cũng theo quy định tại Điều 272 Bộ luật Dân sự, trong trường hợp cây cối, công trình xây dựng có nguy cơ sập đổ xuống bất động sản liền kề hoặc nơi sinh hoạt công cộng thì chủ sở hữu phải chặt cây, sửa chữa hoặc phá dỡ công trình xây dựng đó. Chủ sở hữu bất động sản liền kề có quyền yêu cầu chủ sở hữu cây cối, công trình xây dựng có nguy cơ sập đổ phải chặt cây, phá dỡ; nếu người đó không chặt cây, phá dỡ thì chủ sở hữu bất động sản liền kề có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho chặt cây, phá dỡ. Chi phí chặt cây, phá dỡ do chủ sở hữu cây cối, công trình xây dựng chịu.

– Đạo lý: Tình làng nghĩa xóm “Tối lửa tắt đèn có nhau”, “Bán anh em xa mua láng giềng gần”; tinh thần biết hy sinh vì lợi ích tập thể “Mình vì mọi người”; cư xử có văn hóa “Lời nói không mất tiền mua – Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”,“Chim khôn kêu tiếng rảnh rang – Người khôn ăn nói dịu dàng dễ nghe”…

TÌNH HUỐNG 19: Nhà ông B và nhà bà C liền kề nhau, ranh giới giữa phần đất thuộc quyền sử dụng của nhà hai ông, bà là một hàng rào tre. Ông B định sửa sang nhà cửa, xây tường rào xung quanh cho sạch đẹp. Ông B bàn với bà C là mỗi gia đình bớt một ít đất để xây tường rào chung, nhưng bà C không đồng ý. Theo bà C, ông B muốn xây tường rào thì cứ xây trên phần đất nhà mình chứ không được lấn sang đất nhà bà. Ông B lại cho rằng vì lợi ích chung nên ông vẫn xây ở đúng vị trí của hàng rào tre cũ. Vì vậy, giữa ông B và bà C xảy ra xích mích, cả hai ông, bà yêu cầu tổ hòa giải giải quyết, là Tổ viên Tổ hòa giải thì anh (chị) sẽ giải quyết như thế nào?

– Pháp luật: Pháp luật dân sự có quy định rõ nghĩa vụ tôn trọng ranh giới giữa các bất động sản và quyền sở hữu đối với mốc giới giữa các bất động sản tại Điều 265, Điều 266 Bộ luật Dân sự năm 2005, cụ thể như sau: Người có quyền sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới trong khuôn viên đất phù hợp với quy hoạch xây dựng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất liền kề của người khác.

Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thoả thuận khác (Khoản 2 Điều 265 Bộ luật Dân sự năm 2005).

Chủ sở hữu bất động sản liền kề chỉ được dựng cột mốc, hàng rào, xây tường ngăn trên phần đất thuộc quyền sử dụng của mình. Những người sử dụng đất liền kề có thể thoả thuận với nhau về việc dựng cột mốc, hàng rào, xây tường ngăn, trồng cây trên ranh giới để làm mốc giới ngăn cách giữa các bất động sản; những vật mốc giới này là sở hữu chung của những người đó (Khoản 1 Điều 266 Bộ luật Dân sự năm 2005).

– Đạo lý: Tình làng nghĩa xóm “Tối lửa tắt đèn có nhau”, “Bán anh em xa mua láng giềng gần”; tinh thần biết hy sinh vì lợi ích tập thể “Mình vì mọi người”, đã là hàng xóm láng giềng cần tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ nhau…

TÌNH HUỐNG 20: Cày xong thửa ruộng, anh Thắng vào nhà bạn chơi, định uống ly nước xong ra ngay. Thế nhưng vui chuyện cùng bạn nên anh quên buộc trâu, để trâu ăn mất gần 100 m2 bắp đang kỳ trổ bông của bà Thái. Bà Thái bắt anh Thắng phải đền toàn bộ thiệt hại cho bà. Anh chỉ chịu đền một nửa vì cho rằng anh không cố ý. Chẳng qua là anh quên buộc trâu thôi. Mỗi người một ý không ai chịu ai, mâu thuẫn giữa hai nhà ngày càng gay gắt. Là Tổ viên Tổ hoà giải, nếu phải hòa giải vụ việc trên thì ông (bà) sẽ giải quyết như thế nào?

– Pháp luật: Theo quy định tại khoản 1 Điều 625 Bộ luật Dân sự 2005 thì: “Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác…”.

Tại khoản 1, 2 Điều 605 Bộ luật Dân sự 2005 cũng quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại như sau:

“Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình”.

– Đạo lý: Tình làng nghĩa xóm “Tối lửa tắt đèn có nhau”, “Bán anh em xa mua láng giềng gần”; tinh thần biết bỏ qua những lỗi nhỏ nhặt đừng để “chuyện bé xé ra to”, đã là hàng xóm láng giềng cần tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ nhau.

TÌNH HUỐNG 21: Anh Thanh và chị Hiền đã kết hôn với nhau được 6 năm và đã có hai con chung, đứa lớn lên 4, đứa nhỏ lên 2 nhưng đều là con gái, gia đình anh Thanh chỉ có anh Thanh là con trai duy nhất nên bắt vợ chồng anh phải sinh bằng được con trai mới thôi. Tuy nhiên chị Hiền không đồng ý cho rằng 2 con là đủ, con nào cũng là con, không nên sinh  thêm nữa, dẫn đến gia đình thường xuyên xảy ra to tiếng với nhau, gia đình anh Thanh nói chị Hiền không sinh thêm cháu trai, họ sẽ đi hỏi cưới vợ khác cho anh Thanh để có cháu trai nối dõi.

Nếu anh (chị) là hòa giải viên của khóm nơi anh Thanh và chị Hiền đang sinh sống, chị Hiền đến gặp anh (chị) để nhờ giúp đỡ, trong trường hợp này anh (chị) sẽ giải quyết như thế nào?

– Pháp luật: Theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng anh có trách nhiệm thực hiện kế hoạch hóa gia đình.

Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 còn nghiêm cấm các hành vi cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn.

– Đạo lý: “Con nào chẳng là con”; “Dù gái hay trai, chỉ hai là đủ”; Mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có 1 hoặc 2 con, vì xã hội phồn vinh… Không phân biệt con trai hay con gái, khuyên hai vợ chồng biết quan tâm, chăm sóc, giáo dục, dạy dỗ cho hai con học đến nơi đến chốn, ngoan ngoãn, lớn lên trở thành người con hiếu thảo, có ích cho xã hội…

TÌNH HUỐNG 22: Nguyễn Văn A thực hiện hành vi hiếp dâm cháu N (15 tuổi). Khi vụ việc bị phát giác, A đề nghị bồi thường cho gia đình người bị hại một số tiền với điều kiện không bị kiện ra tòa. Gia đình nạn nhân vì không muốn ảnh hưởng đến tâm lý của cháu N và sợ tai tiếng nên cũng không muốn kiện A ra tòa. Hai bên tiến hành hòa giải và nhờ một hòa giải viên làm trung gian. Nếu anh (chị) là hòa giải viên, anh (chị) sẽ làm như thế nào trong trường hợp này?

Căn cứ giải quyết: Điều 3 Luật hòa giải ở cơ sở năm 2012 thì những hành vi vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được phép hòa giải.

TÌNH HUỐNG 23: Anh Tâm và chị Lan kết hôn được gần 5 năm và đã có với nhau 2 đứa con. Thời gian gần đây, hai vợ chồng anh chị thường xuyên cãi cọ, xô xát lẫn nhau, dẫn đến chị Lan phải làm đơn xin ly dị anh Tâm. Được biết, về kinh tế, tài chính của gia đình giao cho chị Lan quản lý. Khi anh em, bạn bè ăn cưới hoặc mừng nhà mới, anh bảo chị Lan đưa tiền để đi mừng, chị cũng không đưa. Vì lý do trên mà khi anh Tâm đến nhà anh em, bạn bè có lòng cho ăn uống thì anh thường uống say, khi về nhà hay chửi bới, dọa nạt chị Lan (theo anh nói là làm thế để cho chị Lan bỏ cái tính ky bo ấy đi).

Về việc xin ly hôn, chị Lan cho biết việc chị đòi ly dị là do anh Tâm hay uống say rượu, chửi bới, dọa nạt chị, anh Tâm sống không có tình cảm.Về phần anh Tâm, anh không muốn ly hôn vì anh còn thương yêu vợ con nên anh đã đề nghị tổ hòa giải xóm giúp đỡ.

Nếu ông (bà) là Tổ viên Tổ hòa giải thì trong trường hợp này ông (bà) sẽ giải quyết như thế nào?

– Pháp luật: Khoản 3 Điều 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình: Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con. Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình 2014 nghiêm cấm hành vi bạo lực gia đình.

– Đạo lý: Tình nghĩa vợ chồng là đáng quý, “Thuận vợ, thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”; “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”… Phân tích cho chị Lan, anh Tâm thấy: Đã là vợ chồng, gá nghĩa trăm năm, sao lại đành dứt tình dứt nghĩa? Đạo làm người và phép xử thế trong ca dao tục ngữ đã luôn nhắc nhở cho mọi người “Trách người một, trách ta mười – Bởi ta tệ trước nên người tệ sau”. Khuyên anh chị cần bình tĩnh:“Chồng nóng thì vợ bớt lời, cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê”.

TÌNH HUỐNG 24: Bà Dung đã nhiều năm mâu thuẫn, xích mích với con dâu của bà là chị Hoa, ban đầu chỉ là những mâu thuẫn nhỏ xảy ra trong sinh hoạt gia đình, rồi cách cư xử của con dâu chưa được khéo léo trong quan hệ với mẹ chồng, sau ngày càng gay gắt, bà Dung đã đuổi chị Hoa ra khỏi nhà. Biết được mâu thuẫn của gia đình bà Dung và cũng biết được nhà bà có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, đất đai nhà cửa chật hẹp, tổ hòa giải đã cử hòa giải viên đến nắm tình hình, tiến hành hòa giải vụ việc.

Nếu ông (bà) là hòa giải viên tiến hành hòa giải vụ việc trên, ông (bà) sẽ giải quyết như thế nào?

– Pháp luật: Khoản 3 Điều 2, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định: “Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau…”

– Đạo lý: Đối với bà Dung, làm cha, làm mẹ, bà nên thông cảm, vị tha và hiểu cho con dâu mình còn “trẻ người non dạ”, con dâu có điều gì không phải thì nhẹ nhàng dạy bảo, chắc chắn con dâu bà sẽ nhận ra cái sai của mình mà tự sửa chữa, cuộc sống gia đình sẽ thoải mái, vui vẻ. Đối với chị Hoa, là phận con, cô cần yêu quý, kính trọng, hiếu thảo, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, cha mẹ chồng cũng như cha mẹ đẻ, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam.

TÌNH HUỐNG 25: Gia đình ông N là gia đình có đông con trai. Khi các con ông trưởng thành và lập gia đình đều sống chung cùng với ông bà. Chính vì thế nhiều mâu thuẫn xích mích xảy ra giữa các thành viên trong đại gia đình. Đặc biệt, việc ông N đối xử không bình đẳng giữa các con đã làm cho mâu thuẫn giữa ông N và anh T ngày càng trầm trọng, có những lúc anh T đã từng dọa đánh bố.

Nếu ông (bà) là hòa giải viên tiến hành hòa giải vụ việc trên, ông (bà) sẽ giải quyết như thế nào?

– Pháp luật: Khoản 3 Điều 2, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định: “Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau…”

Khoản 1, Điều 49, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình: Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình.

– Đạo lý: “Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”; con nao cũng là con,…

TÌNH HUỐNG 26: Anh T và chị V sau một thời gian tìm hiểu, hai anh chị đã quyết định xin phép gia đình hai bên cho họ kết hôn với nhau. Song do trước đây, bà C là mẹ anh T có mâu thuẫn với gia đình chị V nên bà C cương quyết không cho anh T cưới chị V. Mặc dù bị mẹ ngăn cản nhưng họ vẫn quyết tâm đến với nhau, hai anh chị đã đến Uỷ ban nhân dân xã xin đăng ký kết hôn. Bà C biết chuyện đã đến Uỷ ban nhân dân nơi hai anh chị đang đăng ký kết hôn, mắng chửi chị V và dọa sẽ chết nếu anh T cương quyết đăng ký kết hôn với chị V. Anh T đã phải hoãn ngày đăng ký kết hôn lại và đến nhờ Tổ hòa giải giúp đỡ thuyết phục mẹ.

– Pháp luật: khoản 1, Điều 2, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014  quy định: “Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng…”, điểm b, khoản 2, Điều 5: Nghiêm cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn.

– Đạo lý: “ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên”, phương châm “kiên trì thuyết phục”, “mưa dầm ướt áo”

TÌNH HUỐNG 27: Anh Sơn và chị Hòa kết hôn và có 02 con chung, thời gian đầu hôn nhân giữa hai người rất hạnh phúc. Tuy nhiên, thời gian sau này giữa hai người thường xuyên xảy ra cãi vã, lời qua tiếng lại, hai người không làm thủ tục ly hôn mà sống ly thân từ hơn một năm nay, Anh Sơn và chị Hòa vẫn sống chung nhà. Thời gian gần đây anh Sơn có quan hệ tình cảm với chị Hương (người cùng xóm), thời gian đầu anh Sơn còn giữ kín mối quan hệ nhưng về sau anh Sơn công khai sống chung với chị Hương như vợ chồng. Biết chuyện, chị Hòa đến tổ hòa giải nhờ giải quết.

Nếu ông (bà) là hòa giải viên tiến hành hòa giải vụ việc trên, ông (bà) sẽ giải quyết như thế nào?

– Pháp luật: khoản 1, Điều 2, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014  quy định: “Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng…”,

Điểm c, khoản 2, Điều 5: nghiêm cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

Điều 3, Luật hòa giải ở cơ sở quy định các vụ việc không được hòa giải: vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.

Chị H làm công tác xã hội thường xuyên đi làm về muộn, ít có thời gian chăm sóc gia đình và các con. Anh T, chồng chị H rất khó chịu, thường mắng chửi vợ. Chị H lại nóng tính, hai vợ chồng thường xuyên cãi nhau ảnh hưởng đến an ninh, trật tự thôn xóm.

Nếu ông (bà) là hòa giải viên tiến hành hòa giải vụ việc trên, ông (bà) sẽ giải quyết như thế nào?

– Pháp luật: Điều 19, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.

– Đạo lý: Tình nghĩa vợ chồng là đáng quý, “Thuận vợ, thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”; “Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê”

Tân và Hoài cưới nhau được 12 năm, có một bé gái tên Kiều được 11 tuổi. Hoài làm công nhân may cho một khu công nghiệp còn Tân làm công nhân cho một công ty đồ gỗ. Mỗi khi uống rượu say về là Tân thường xuyên đánh Hoài nhưng khi tỉnh rượu Tân lại xin lỗi Hoài. Hoài tìm đến tổ hòa giải khu phố mong được giúp đỡ.

Là Tổ viên Tổ Hoà giải, theo ông (bà) việc này nên hòa giải như thế nào?

– Pháp lý: khoản 1, Điều 19, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

Điều 2 của Luật phòng chống bạo lực gia đình thì những hành vi bạo lực gia đình gồm:

a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;

b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

Khoản 1, Điều 49, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình quy định phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình.

– Đạo lý:  Tình nghĩa vợ chồng là đáng quý, vợ chồng có trách nhiệm yêu thương nhau, cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc tiến bộ, cha mẹ là tấm gương cho con cái noi theo.

TÌNH HUỐNG 30: Ông Hoàng có hai người con đẻ, người con lớn 22 tuổi đã có gia đình riêng, còn người con thứ hai mới lên 9 tuổi. Vì biết mình bị bệnh nặng không thể qua khỏi, ông Hoàng ra Uỷ ban nhân dân xã lập di chúc để lại toàn bộ tài sản là một căn nhà cho người con lớn, ông cho rằng người con thứ hai còn nhỏ, nên không cho tài sản. Sau khi ông Hoàng chết, người con lớn có ý đuổi mẹ và em ra khỏi nhà. Bà Linh là vợ hợp pháp của ông Hoàng biết sự việc ông lập di chúc cho người con lớn toàn bộ tài sản, nên bà làm đơn đề nghị tổ hoà giải ở ấp can thiệp.

Nếu anh (chị) là hòa giải viên, anh (chị) sẽ giải quyết như thế nào?

– Pháp luật: Điều 669 Bộ luật dân sự năm 2005. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc: Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật dân sự năm 2005:

1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.

– Đạo lý: “Một giọt máu đào, hơn ao nước lã”; “Anh em như thể tay chân, anh em hòa thuận song thân vui vầy”, không nên để những chuyện toan tính, nhỏ nhen, ích kỷ, hẹp hòi và lợi ích vật chất đánh mất đi tình cảm anh em trong một gia đình…