Xuất nhập khẩu của Trung Quốc tăng trưởng trở lại trong tháng 4 sau khi giảm vào tháng trước, báo hiệu sự phục hồi đáng khích lệ của nhu cầu nội địa và nước ngoài.

Xuất nhập khẩu thép của Trung Quốc năm 2021

Nhập khẩu thép bán thành phẩm của Trung Quốc giảm đáng kể, ở mức 32% xuống còn 12,5 triệu tấn trong năm 2021. 75% tổng lượng thép bán thành phẩm nhập khẩu là phôi và khối lượng giảm vừa phải, ở mức 4% so với cùng kỳ xuống còn 9,4 triệu tấn trong năm 2021. Các nguồn chính phôi thép nhập khẩu vào Trung Quốc là từ Việt Nam, Indonesia, Ấn Độ, Oman và Iran, theo đó lượng nhập khẩu của mỗi nước vượt một triệu tấn. Nga không phải là nguồn nhập khẩu phôi đối với Trung Quốc trước năm 2019. Trung Quốc bắt đầu nhập khẩu phôi từ Nga trong những năm Covid 19 và khối lượng đáng kể là 1,5 triệu tấn năm 2020 và giảm xuống còn nửa triệu tấn trong năm 2021. Trung Quốc bắt đầu nhập khẩu phôi từ Ukraine trong năm 2020, ở mức nửa triệu tấn. Tuy nhiên, khối lượng đã giảm một nửa trong năm 2021.

Mặt khác, nhập khẩu phôi tấm giảm đáng kể, từ 7,3 triệu tấn năm 2020 xuống còn 2,4 triệu tấn năm 2021. Các nguồn phôi tấm chính là Indonesia, Việt Nam và Nga. Nhập khẩu từ Indonesia được cho là từ PT Dexin Steel. Trung Quốc bắt đầu nhập khẩu phôi tấm từ Nga trong năm 2019, ở mức 132.184 tấn. Khối lượng nhập khẩu tăng vọt lên 1,7 triệu tấn vào năm 2020 và giảm xuống 248.907 tấn năm 2021.

Nhập khẩu thép hình và thép cuộn vào Trung Quốc giảm lần lượt 2% và 10%. Trong khi đó, nhập khẩu thép thanh tăng đáng kể, 26% so với cùng kỳ lên 3,6 triệu tấn. Nhật Bản là nguồn chính đối với nhập khẩu thép hình của Trung Quốc. Đối với thép cuộn và thép thanh, Malaysia là nguồn nhập khẩu lớn nhất. Đây có thể là nguồn cung từ đầu tư thép của Trung Quốc vào Malaysia.

Nhập khẩu sản phẩm thép dẹt của Trung Quốc giảm đáng kể trong hầu hết các sản phẩm. Nhập khẩu thép tấm (HRP) giảm 36% so với cùng kỳ xuống còn 1,6 triệu tấn. Nhập khẩu thép cuộn cán nóng (HRC) giảm 65% so với cùng kỳ xuống 2,6 triệu tấn trong năm 2021. Các nguồn nhập khẩu HRP và HRC chính là Nhật Bản và Hàn Quốc. Nhập khẩu thép cuộn cán nguội (CRC) giảm 11% so với cùng kỳ năm trước xuống còn 3,3 triệu tấn trong năm 2021. Các nguồn nhập khẩu chính là Hàn Quốc, Indonesia, Nhật Bản và Đài Loan.

Nhập khẩu tôn mạ kẽm, tấm tráng thiếc và không chứa thiếc của Trung Quốc ghi nhận mức tăng trưởng dương lần lượt là 19% và 21%. Tuy nhiên, nhập khẩu tôn mạ kẽm nhúng nóng, tôn mạ kẽm, tôn mạ màu và các loại tôn mạ khác lại giảm ở mức vừa phải. Nhập khẩu cả ống không hàn và ống hàn lần lượt giảm 14% và 2%.

Xuất khẩu thép bán thành phẩm của Trung Quốc ở mức thấp là 35.994 tấn trong năm 2021. Xuất khẩu thép hình giảm 13% so với cùng kỳ năm ngoái xuống còn 1,7 triệu tấn. 60% xuất khẩu thép hình là thép hình hợp kim. Phần lớn xuất khẩu được gửi đến Hồng Kông, Philippines, Malaysia, Hàn Quốc, Indonesia và Myanmar.

Xuất khẩu thép thanh tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước lên 4,8 triệu tấn trong năm 2021. 70% lượng xuất khẩu là thép thanh hợp kim. Một phần tư số thép thanh xuất khẩu là đến Hàn Quốc. Xuất khẩu thép cuộn của Trung Quốc tăng 11% so với cùng kỳ năm trước lên 3,3 triệu tấn và 80% trong số đó là thép cuộn hợp kim. Các thị trường xuất khẩu thép cuộn chính là Hàn Quốc và các nước ASEAN.

Xuất khẩu thép tấm từ Trung Quốc giảm nhẹ, ở mức 2% so với cùng kỳ năm ngoái. Xuất khẩu thép tấm cácbon tăng từ 149.247 tấn lên 1,3 triệu tấn trong khi xuất khẩu tấm hợp kim giảm từ 3 triệu tấn xuống 1,8 triệu tấn. Người ta cho rằng đây là sự điều chỉnh của báo cáo xuất khẩu. Các điểm đến chính là Việt Nam và Hàn Quốc.

Mặt khác, xuất khẩu thép cuộn cán nóng tăng gần gấp đôi về lượng lên 10,8 triệu tấn trong năm 2021. Trung Quốc xuất khẩu HRC sang nhiều nước khác nhau, chủ yếu là Việt Nam, Hàn Quốc, Pakistan và Ả Rập Xê Út.

Trung Quốc xuất khẩu thép cuộn cán nguội sang nhiều nước và khối lượng tăng gần gấp đôi lên 8,8 triệu tấn trong năm 2021. Các thị trường chính là Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Đài Loan, Brazil và Ấn Độ.

Đối với tấm mạ phủ, nhiều mặt hàng xuất khẩu tấm phủ, bao gồm tấm mạ kẽm, tấm tráng thiếc và không chứa thiếc và các tấm mạ khác tăng đáng kể, ở mức 20-66% so với cùng kỳ năm trước. Mặt khác, xuất khẩu tôn mạ màu giảm 1,7% so với cùng kỳ năm trước. Các điểm đến chính là Thái Lan, Hàn Quốc, Philippines, Brazil, Indonesia và Việt Nam.

Xuất khẩu cả ống không hàn và ống hàn của Trung Quốc đều tăng vừa phải, ở mức 4-5% so với cùng kỳ năm trước. Trung Quốc xuất khẩu ống thép đi nhiều nước, chủ yếu là các nước ASEAN, Châu Á, Trung Đông và Châu Phi.

Nội dung yêu cầu không tồn tại.Vui lòng click vào đây để về trang chủ.

(Vietnamplus.vn) Hoạt động xuất khẩu hàng hóa từ Trung Quốc trong tháng 3/2024 đã giảm 7,5% so với cùng kỳ năm 2023, đánh dấu mức giảm lớn nhất kể từ tháng 8/2023.

Vận chuyển hàng hóa tại cảng ở thành phố Thiên Tân, Trung Quốc. (Ảnh: THX/TTXVN)

Dữ liệu mới nhất từ Tổng cục Hải quan Trung Quốc, xuất khẩu tháng 3/2024 của nước này giảm mạnh, trong khi nhập khẩu cũng bất ngờ giảm mạnh hơn so với dự báo của thị trường. Kết quả này càng nhấn mạnh nhiệm vụ mà các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc phải nỗ lực thúc đẩy sự phục hồi nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Cụ thể, hoạt động xuất khẩu hàng hóa từ Trung Quốc trong tháng 3/2024 đã giảm 7,5% so với cùng kỳ năm ngoái, đánh dấu mức giảm lớn nhất kể từ tháng 8/2023, so với dự báo giảm 2,3% trong cuộc thăm dò ý kiến của các nhà kinh tế của hãng tin Reuters (Vương quốc Anh).

Hoạt động xuất khẩu của Trung Quốc tăng 7,1% trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 02/2024. Trong khi đó, nhập khẩu của Trung Quốc cũng bất ngờ giảm 1,9% trong tháng 3/2024, sau khi tăng trưởng 3,5% trong hai tháng đầu năm. Kết quả này cũng đi ngược với dự báo tăng 1,4% của giới phân tích. Như vậy, Trung Quốc đạt thặng dư thương mại 58,55 tỷ USD trong tháng 3/2024, so với mức thặng dư 70,2 tỷ USD dự kiến trong cuộc thăm dò của Reuters.

Diễn biến ngoài dự kiến của cả xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc trong tháng 3/2024 chỉ ra rằng Trung Quốc sẽ cần kích thích chính sách toàn diện và có mục tiêu hơn để đáp ứng mức tăng trưởng của mình. Ông Bruce Pang, nhà kinh tế trưởng tại Công ty dịch vụ bất động sản Jones Lang Lasalle, cho biết: “Sẽ còn một chặng đường để hoạt động ngoại thương của Trung Quốc quay trở lại làm động lực tăng trưởng cho nền kinh tế lớn thứ hai thế giới”.

Giữa bối cảnh Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (Fed) và các quốc gia phát triển khác không cho thấy sự cấp thiết phải cắt giảm lãi suất, các nhà sản xuất Trung Quốc có thể phải đối mặt với một giai đoạn thử thách tiếp theo khi họ cố gắng đẩy mạnh việc bán hàng hóa ở nước ngoài.

Các nhà phân tích cũng lưu ý về tình trạng dư thừa năng lực của Trung Quốc trong một số ngành công nghiệp có thể mang lại nhiều rào cản thương mại hơn cho trung tâm sản xuất của thế giới.

Trong khi đó, một khảo sát do tư nhân thực hiện cho thấy tăng trưởng hoạt động dịch vụ tại Trung Quốc trong tháng 3/2024 đã tăng tốc, khi các hoạt động kinh doanh mới gia tăng ở mức nhanh nhất trong ba tháng. Đây là dấu hiệu cho thấy tâm lý kinh doanh đang khởi sắc, tạo điều kiện cho sự phục hồi của nền kinh tế. Theo đó, Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành dịch vụ Trung Quốc do Caixin và S&P Global tổng hợp đã tăng từ mức 52,5 trong tháng 2/2024 lên 52,7 vào tháng 3/2024, đánh dấu tháng thứ 15 liên tiếp chỉ số này ở trên ngưỡng 50 điểm.

Nhờ nhu cầu cơ bản được cải thiện và nỗ lực thúc đẩy số lượng đơn đặt hàng mới, tốc độ mở rộng hoạt động kinh doanh mới trong ngành dịch vụ Trung Quốc đạt mức nhanh nhất kể từ tháng 12/2023. Điều đó cũng thúc đẩy niềm tin kinh doanh khi chỉ số phụ về triển vọng hoạt động tương lai tăng lần đầu tiên sau ba tháng, giữa bối cảnh có những hy vọng rằng các dòng sản phẩm mới, kế hoạch mở rộng và tăng ngân sách khách hàng sẽ giúp thúc đẩy doanh số bán hàng. Tuy nhiên, doanh số bán hàng khả quan hơn và niềm tin kinh doanh không thể chuyển thành tỷ lệ tuyển dụng cao hơn.

Chỉ số việc làm của ngành dịch Trung Quốc đã giảm tháng thứ hai liên tiếp, mặc dù tỷ lệ sa thải đã giảm so với tháng 2/2024. Theo những người tham gia khảo sát, việc nhân viên từ chức cùng các đợt sa thải để cải thiện năng suất đã dẫn đến số lượng lao động trong ngành này giảm.

Dù vậy, cùng với kết quả khảo sát ngành chế tạo tốt hơn mong đợi, số liệu bổ sung thêm bằng chứng cho thấy một số bộ phận của nền kinh tế Trung Quốc đang lấy lại động lực trong quý đầu tiên của năm 2024. Trước đó, Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc (NBS) cho hay các công ty trong lĩnh vực công nghiệp nước này đã đạt lợi nhuận cao hơn trong những tháng đầu năm 2024, củng cố các dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang dần phục hồi bất chấp tình trạng trì trệ kéo dài trong lĩnh vực bất động sản.

Theo NBS, lợi nhuận của các công ty công nghiệp Trung Quốc đã tăng 10,2% trong hai tháng đầu năm 224 so với cùng kỳ năm trước đó, sau khi lợi nhuận giảm 2,3% trong cả năm 2023. Sự gia tăng này diễn ra sau các chỉ số lạc quan hồi đầu tháng này cho thấy sự ổn định ở nền kinh tế lớn nhất châu Á. Tuy nhiên, mức tăng chung vẫn bị hạn chế do tình trạng trì trệ kéo dài trong lĩnh vực bất động sản Trung Quốc. Điều này đã cho thấy sự khác biệt trong quá trình phục hồi sau đại dịch của đất nước.

Nhà kinh tế trưởng Lynn Song của ngân hàng ING cho biết, đà phục hồi của ngành sản xuất nếu tiếp tục được duy trì, sẽ góp phần giúp đạt được mục tiêu tăng trưởng năm 2024, song vẫn cần nhiều chính sách hỗ trợ hơn để duy trì đà tăng trưởng và phục hồi. Dữ liệu cho thấy các công ty nhà nước ghi nhận lợi nhuận tăng 0,5% trong tháng 01 - 02/2024, lợi nhuận của các công ty nước ngoài đạt mức tăng 31,2%, trong khi các công ty thuộc khu vực tư nhân ghi nhận mức tăng 12,7%.